Sunday, 22 June 2014

Vụ giàn khoan Hải Dương 981: Thời điểm chín muồi để khởi kiện

(DĐDN) – Nhằm cung cấp cho độc giả hiểu rõ hơn những vấn đề pháp lý nếu VN khởi kiện Trung Quốc (TQ) ra cơ quan tài phán quốc tế về việc TQ hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trái phép tại vùng biển VN, DĐDN đã có cuộc trao đổi với ông Châu Huy Quang(*) – luật sư điều hành Rajah & Tann LCT Lawyers thuộc liên minh Rajah & Tann Asia, một trong hãng luật lớn nhất khu vực Đông Nam Á.
Theo luật sư Quang, tranh chấp giữa VN và TQ phát sinh có liên quan đến việc TCty Dầu khí Hải Dương TQ (“CNOOC”) đơn phương đặt giàn khoan Hải Dương 981 tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc thẩm quyền tài phán của VN từ đầu tháng 5/2014. Theo đó, VN có thể vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp được quy định tại Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (“UNCLOS”) mà cả VN và TQ đang là thành viên.
– VN cần chuẩn bị những gì cho vụ kiện, nếu diễn ra, thưa luật sư?
VN có thể đúc kết kinh nghiệm vụ kiện Philippines cho quy mô vụ trọng tài quốc tế, đặc biệt là cho giai đoạn phỏng vấn lựa chọn trọng tài viên, luật sư, nhân chứng, thu thập và xây dựng hệ thống chứng cứ. Trong đó, theo tôi, hai khâu quan trọng cần chuẩn bị tốt, đó là khâu nhân chứng và khâu hệ thống tài liệu chứng cứ phục vụ nội dung đơn kiện. Để làm được điều này, chúng ta cần xác định rõ VN chỉ khởi kiện TQ đặt dàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của mình với yêu cầu TQ di dời dàn khoan và bồi thường, hay đồng thời phải xúc tiến một vụ kiện tổng thể, trong đó về bản chất là yêu cầu đòi lại chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Hoàng Sa mà TQ đã dùng vũ lực thôn tính. Tôi cũng đồng ý với quan điểm rằng đây là thời điểm chín muồi về sự kiện và và cơ sở pháp lý để chúng ta khởi động vụ kiện trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Theo tôi, về khâu nhân chứng, hiện thời chúng ta có nhiều “nhân chứng sống” gồm cả nhân chứng sự kiện lịch sử và nhân chứng chuyên gia trong nước và quốc tế am tường các chứng cứ lịch sử để chứng minh chủ quyền của VN. Đội ngũ này đóng vai trò trọng yếu trong một phiên xử của tòa án trọng tài quốc tế. Nếu không tận dụng được các “nhân chứng sống” ở thời điểm này, có lẽ khó có thể bù đắp được thiệt hại khi thời điểm lịch sử này trôi qua.
VN có một lượng chứng cứ, tài liệu phong phú (các tài liệu, ấn chí, bản đồ, các công ước, văn kiện pháp lý, các sự kiện lich sử về cuộc chiến bảo về chủ quyền biển đảo) đủ để chứng minh VN có chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa ít nhất là từ thế kỷ 17. Tuy nhiên, để hệ thống hóa và xác lập được các tài liệu đơn lẻ này thành một tập tài liệu chứng cứ có thể chấp nhận cũng như xây dựng được phương cách để bảo vệ được những chứng cứ này trong các phiên tố tụng của tòa án trọng tài quốc tế là cả một vấn đề kỹ thuật pháp lý tố tụng công phu. Do vậy, phục vụ cho công cuộc tranh đấu có thể kéo dài rất lâu, VN cần có những động thái tích cực để chuẩn bị các nội dung trên càng sớm càng tốt.
– Ông có thể nói rõ hơn về quy trình khởi kiện ra cơ quan tài phán quốc tế?
Vụ việc của VN về bản chất tương tự như vụ kiện của Philippines được giải quyết bởi HĐTT theo Phụ lục VII của UNCLOS. Vụ việc này nếu được tiếp nhận, sẽ do Toà trọng tài Thường trực La Haye – nơi tổ chức đăng ký thủ tục tố tụng tiến hành. Theo quy định tại Điều 5, Phụ lục VII của UNCLOS, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác, HĐTT có quyền tự mình quyết định thủ tục tố tụng với điều kiện bảo đảm cho các bên có quyền tham gia tố tụng và trình bày ý kiến.
Theo Điều 1, Phụ lục VII UNCLOS vụ kiện sẽ được khởi động bởi một thông báo khởi kiện bằng văn bản do một bên gửi tới bên tranh chấp còn lại. Thông báo có kèm theo bản trình bày các yêu cầu khởi kiện và các lý do làm căn cứ cho các yêu cầu đó. Trường hợp thụ lý vụ kiện, HĐTT sẽ ban hành “Quy trình Tố tụng” (Procedural Order) thiết lập thời gian dự kiến cho quá trình tố tụng và thông qua “Quy tắc Tố tụng chính thức của vụ kiện” (Rules of Procedure). Quy tắc tố tụng và điều khoản tham chiếu (Term of Reference) sẽ quy định các vấn đề pháp lý về quy trình tố tụng trọng tài.
Tuỳ theo tính chất phức tạp của vụ việc mà thời gian tố tụng có thể kéo dài nhiều năm. Theo thống kê của PCA, nếu tính từ thời điểm UNCLOS được xác lập (1982) và có hiệu lực 1994, tính đến nay sau hơn 30 năm chỉ có 12 vụ kiện liên quan giải quyết bằng trọng tài theo cơ chế quy định tại Phụ lục VII của UNCLOS. Trong đó có 11 vụ thông qua đăng ký thủ tục tố tụng tại Tòa trọng tài thường trực PCA, trong số này hơn một nữa số vụ kiện chưa có phán quyết chung thẩm, bao gồm vụ kiện của Philippines.
Một trong những lý do kéo dài phiên tòa là việc phụ thuộc vào sự hợp tác thiện chí của các bên trong quá trình khởi kiện cũng như khó khăn gặp phải của các đương đơn trong việc cung cấp tài liệu chứng cứ làm cơ sở để HĐTT xem xét ban hành phán quyết.
– Các hiệp hội, tổ chức xã hội trong và ngoài nước đóng vai trò gì trong vụ kiện dự kiến trên, thưa luật sư ?

Việc khởi kiện tại toà trọng tài quốc tế đòi hỏi VN phải có sự am hiểu tường tận về hệ thống pháp luật quốc gia cũng như hệ thống pháp luật quốc tế.
Việc khởi kiện tại toà trọng tài quốc tế đòi hỏi VN phải có sự am hiểu tường tận về hệ thống pháp luật quốc gia cũng như hệ thống pháp luật quốc tế. Để làm được điều này, vai trò của các tổ chức, hiệp hội nghề nghiệp chuyên biệt như Hội Luật gia, Liên Đoàn Luật sư VN (VBF), đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của Liên đoàn Luật sư Quốc tế (IBA), Hiệp hội luật sư Châu Á – Thái Bình Dương (IPBA), tranh thủ các diễn đàn chính và không chính thức trong khu vực. Đặc biệt, việc thu hút sự chú ý đồng thuận từ Hội đồng Bảo an và các cơ quan chuyên môn liên quan của Liên Hiệp quốc là các động thái cần duy trì liên tục. Xây dựng đội ngũ chuyên gia công pháp quốc tế bằng cách mạnh dạn giao cho đội ngũ luật sư quốc tế giàu kinh nghiệm đảm nhiệm cùng luật sư VN trong các phiên tố tụng quốc tế trên. Philippines đã rất chủ động trong cách chỉ định đội ngũ tư vấn quốc tế này cho vụ kiện đòi chủ quyền của mình.
– Liệu VN nên khởi động một vụ kiện độc lập hay nên cùng tham gia với Philippines trong vụ kiện mà Philippines đang tiến hành?
Trên lý thuyết, VN cũng có thể tham gia vào vụ kiện giữa Philippines và TQ với tư cách là bên thứ ba liên quan đến vụ kiện. Thực tế, cũng chưa có tiền lệ nào về việc một bên thứ ba tham gia vào thủ tục trọng tài thành lập theo Phụ lục VII. Tôi cho rằng bản chất các tuyên bố chủ quyền, đặc biệt đối với các vùng có tuyên bố “chủ quyền chồng lấn”, giữa TQ với một số nước Đông Nam Á trong đó có VN và Philippines, do vậy, khả thi hơn là chúng ta nên tiến hành một vụ kiện độc lập để có thể tham gia bảo vệ quyền chủ quyền biển đảo quốc gia và đồng thời duy trì sự trao đổi, hợp tác để nhận được ủng hộ, trợ giúp từ phía Philippines cũng như công luận quốc tế trong công cuộc đấu tranh pháp lý này.
– Xin cảm ơn ông.
Bá Tú thực hiện

No comments:

Post a Comment