Thursday, 22 May 2014

Truy cứu trách nhiệm hình sự chủ tàu Trung Quốc

LS Châu Huy Quang*-Thanh Quang
Gần đây các tờ the USA Today, the New York Times, the Washington Post đồng loạt đưa tin, Chính phủ Mỹ lần đầu tiên truy tố 5 “tin tặc” hiện vẫn là quân nhân tại ngũ thuộc đơn vị 61398 của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Hoa đóng ở Thượng Hải với cáo buộc nhóm “tin tặc” này đã tấn công đánh cắp các bí mật thương mại, quyền sở hữu trí tuệ từ 1.753 máy tính của 5 công ty Mỹ trong đó có US Steel, Westinghouse Electric. Đồng thời, ngày 19-5-2014, Cục Điều tra Liên bang Hoa Kỳ (FBI) ra quyết định truy nã rộng rãi 5 đương sự này để xét xử theo hệ thống tư pháp của Hoa Kỳ.  Tương tự cho một vụ việc khác, vào tháng 3-2013 sau hai năm tổ chức điều tra, xét xử, Tòa án Tối cao Tây Ban Nha ra lệnh truy nã quốc tế 5 cựu quan chức Trung Quốc, trong đó có cựu chủ tịch Giang Trạch Dân và cựu thủ tướng Lý Bằng, vì cáo buộc những người này phạm tội ác với người Tây Tạng. 
Các tàu Trung Quốc đã liên tiếp tấn công tàu cá, tàu dân sự, tàu chấp pháp, cảnh sát biển của Việt Nam, và mới đây là tàu cá QNg 90205TS của ngư dân Nguyễn Tấn Hải (Quảng Ngãi) và đồng ngư bị tàu kiểm ngư của Trung Quốc chủ đích tấn công, đã được báo chí tường tận mô tả: “thân tàu bị đập phá, và toàn bộ máy móc, hải sản, ngư lưới vụ đều bị trấn sạch. Họ đánh đập gây thương tích, tay chân gãy, đầu chảy máu có dấu ba-toong và đế giày”, vào rạng sáng ngày 17-5-2014 ngay trong vùng biển thuộc đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Vấn đề được đặt ra là liệu những hành vi phạm tội  này của một số tổ chức, cá nhân  Trung Quốc liên can có thể bị đem ra xem xét truy tố theo pháp luật hình sự Việt Nam được không?
Luật hình sự và vấn đề bảo vệ chủ quyền trên biển
Theo pháp luật hình sự của Việt Nam thì mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam đều bị áp dụng Bộ luật Hình sự năm1999, sửa đổi 2012a (BLHS) của Việt Nam để xử lý, bất kể là công dân có quốc tịch Việt Nam hay người nước ngoài. Lãnh thổ của một quốc gia bao gồm bề mặt của trái đất, có giới hạn gồm cả đất liền, nước và không gian thuộc sở hữu của quốc gia đó.  Xét góc độ địa lý, chính trị và hành chính, lãnh thổ là một phần đất nằm dưới sự quản lý của cơ quan chính quyền của một quốc gia. Như vậy có thể hiểu là BLHS của Việt Nam được áp dụng trong mọi  trường hợp có hành vi phạm tội được thực hiện trong vùng biển bên trong đường biên giới trên biển của Việt Nam.  Điều 1 của Luật Biên Giới Quốc Gia (2003) của chúng ta cũng khẳng định biên giới của Việt Nam là đường và mặt thẳng đứng theo đường đó để xác định giới hạn lãnh thổ đất liền, các đảo, các quần đảo trong đó có quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, vùng biển, lòng đất, vùng trời của nước CHXHCN Việt Nam.
Theo quy định của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển Quốc tế năm 1982 (Công ước UNCLOS 1982), đường biên giới trên biển của Việt Nam được tính từ đường cơ sở ra ngoài lãnh hải Biển Đông 12 hải lý, bao gồm nội thủy và lãnh hải (hình minh họa).  Điều này có nghĩa là mọi hành vi phạm tội của người nước ngoài nếu được thực hiện trên vùng biển thuộc tuyên bố xác lập chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam đều phải bị nghiêm trị theo pháp luật hình sự Việt Nam. Ngoài ra, pháp luật hình sự Việt Nam còn cho phép xử lý người nước ngoài phạm tội ở bên ngoài lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam trong một số trường hợp nhất định.
Đến nguyên tắc thẩm quyền phổ quát theo luật quốc tế
Khái niệm nguyên tắc “Quyền Tài phán Phổ quát” (Universal Jurisdiction)  được hiểu là cơ chế pháp lý đặc biệt cho phép tòa án của một quốc gia có thể truy tố, xét xử tội phạm đảm bảo “công lý phổ quát” được thực thi mà không nhất thiết quốc gia đó phải có mối liên hệ với nơi xảy ra tội phạm, quốc tịch của kẻ phạm tội, quốc tịch của nạn nhân hoặc bất cứ mối liên hệ nào với lợi ích của quốc gia đó.
Vụ việc Tòa án Tây Ban Nha ra án lệnh bắt giữ một số cựu quan chức Trung Quốc như được đề cập cũng trên cơ sở hệ thống luật pháp Tây Ban Nha thừa nhận nguyên tắc thẩm quyền phổ quát, trong trường hợp cụ thể của họ, tức được phép khởi tố bất kỳ tổ chức, cá nhân nước ngoài, nếu như có cáo buộc về vi phạm nhân quyền.
Việt Nam chưa có thừa nhận cơ chế pháp lý cho quyền tài phán phổ quát. Tuy nhiên, BLHS của Việt Nam hiện hành có một phần tương tự của nguyên tắc này thông qua quy định người nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo BLHS  phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia.
Theo Điều 33, Điều 48, Điều 55 và Điều 76 Công ước UNCLOS 1982, các vùng biển bên ngoài đường biên giới trên biển của Việt Nam gồm: vùng biển tiếp giáp lãnh hải, vùng biển đặc quyền kinh tế (EEZ) và vùng biển thềm lục địa của Việt Nam (các vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia) là những vùng biển tuy không thuộc nội thủy và lãnh hải hoàn toàn của Việt Nam nhưng vẫn thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam với tư cách là quốc gia ven biển (vùng tiếp giáp lãnh hải không phải là lãnh thổ của quốc gia ven biển cũng không phải là một bộ phận của biển quốc tế). Theo Điều 56 của Công ước 1982, quốc gia ven biển có các quyền thuộc chủ quyền về việc thăm dò và khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế. Các quốc gia khác muốn nghiên cứu khoa học (không có quyền khai thác) trong vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia ven biển phải được sự đồng ý và phải tôn trọng luật pháp của quốc gia ven biển đó cũng như những quy định của luật pháp quốc tế. Trên khu vực Biển Đông nơi Trung Quốc tổ chức hạ đặt trái phép dàn khoan HD-981, Việt Nam với tư cách là quốc gia ven biển có quyền thực thi quyền chấp pháp nhằm ngăn chặn và trừng phạt những vi phạm về hải quan, thuế khóa, y tế, khai thác trái phép tài nguyên khoáng sản hay nhập cư trái phép vào lãnh thổ của mình. Đồng thời, cơ quan tài phán của Việt Nam cũng có quyền bắt giữ, phối hợp bắt giữ kẻ phạm tội theo hệ thống tư pháp quốc gia phù hợp với nội dung các Điều ước quốc tế mà Việt Nam  đã ký kết hoặc tham gia.
Quy trình tố tụng hình sự liên quan   
Việt Nam đã chính thức tham gia ký Hiệp định Hợp tác Khu vực về Chống Cướp Biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền tại Châu Á (ReCAAP) và điều ước quốc tế này cũng đã có hiệu lực kể từ ngày 4-9-2006.  Như vậy, mọi hành vi của một số người Trung Quốc như tấn công, cố ý gây thương tích, cố ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản của ngư dân Việt Nam, tàu chấp pháp của Việt Nam xảy ra trong vùng biển Việt Nam, đều có thể bị xem là hành vi “cướp biển” theo nghĩa đen của từ này, chống lại ngư dân Việt Nam theo Điều ước Quốc tế. Do vậy, cá nhân, tổ chức phạm tội có thể bị bắt, xử lý theo quy định pháp luật hình sự Việt Nam. Các ngư dân trên các tàu đánh cá, tàu dân sự khác của Việt Nam có quyền làm đơn tố giác tội phạm gửi cơ quan chức năng Việt Nam để yêu cầu bắt giữ và xử lý hình sự đối với các chủ tàu vi phạm theo các Điều 104 (Tội cố ý gây thương tích), Điều 133 (Tội cướp tài sản) hoặc Điều 143 (Tội hủy hoại tài sản hoặc cố tình làm hư hỏng tài sản) BLHS được viện dẫn bởi quy định tại khoản 2 Điều 6 BLHS Việt Nam và Điều 2.1 ReCAAP mà Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên. Mức hình phạt có thể lên đến 20 năm tù giam hoặc chung thân.
Thực thi Hiệp định Tương trợ Tư pháp về hình sự giữa Việt Nam và Trung Quốc
Theo Điều 25 Hiệp định Tương trợ Tư pháp về các vấn đề dân sự và hình sự giữa Việt Nam và Trung Quốc ký kết vào ngày 19-10-1998, khi Việt Nam có yêu cầu, Trung Quốc có nghĩa vụ chuyển giao cho phía Việt Nam toàn bộ tiền và tài sản do công dân Trung Quốc phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam mà có, hoặc được tìm thấy trên lãnh thổ Trung Quốc. Theo đó, phía Việt Nam có nghĩa vụ cung cấp cho phía Trung Quốc bản sao các bản án hình sự của CHXHCN Việt Nam  liên quan đến các trường hợp công dân Trung Quốc phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam (Điều 25, 26). Như vậy, sau khi cơ quan chức năng tổ chức truy tố và công khai xét xử, thi hành bản án có hiệu lực pháp lý đối với những kẻ tội phạm thực hiện hành vi cướp bóc, công nhiên đánh đập ngư dân Việt Nam ngay trên vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam, phía Việt nam có quyền gửi bản án hình sự đó cho phía Trung Quốc để yêu cầu giao trả toàn bộ tiền và tài sản đang bị chiếm giữ. Động thái pháp lý này cũng góp phần khẳng định nguyên tắc nhất quán của nhà nước ta trong việc thực hiện quyền tài phán chủ động của một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ bao gồm đất liền, các đảo, vùng biển và vùng trời như  xác lập ngay tại Điều 1 của Hiến pháp 2013.
* Luật sư Đoàn Luật sư TPHCM

Friday, 16 May 2014

Cần một trát tòa quốc tế để trục xuất HD 981

Châu Huy Quang
Kể từ ngày 1-5-2014, Trung Quốc đơn phương ngang nhiên kéo và cố định giàn khoan Hải Dương 981 tại vị trí nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, đồng thời tổ chức tàu quân sự bảo vệ và tấn công cản trở các tàu dân sự, lực lượng chấp pháp của Việt Nam đang thi hành công vụ tại vùng biển này.
Nước này gia tăng cường độ tấn công bằng vòi rồng công suất lớn, đâm húc tàu chấp pháp, dân sự của Việt Nam. Vấn đề đặt ra lúc này là ngoài việc tìm kiếm một giải pháp chính trị, ngoại giao, Việt Nam cần  một giải pháp pháp lý trước mắt và lâu dài trong khuôn khổ một vụ kiện quốc tế.
Trong phạm vi bài viết này, tác giả bình luận một số giải pháp pháp lý dưới góc độ xem xét tiền lệ trong công pháp quốc tế các quốc gia liên quan có thể áp dụng nhằm ngăn chặn các hành vi vũ lực, hành vi làm nghiêm trọng vụ việc tranh chấp liên quan lãnh thổ, các va chạm làm trầm trọng hóa xung đột như cách Trung Quốc đang hành xử trên Biển Đông.
Thẩm quyền của tòa án quốc tế trong việc ra quyết định khẩn cấp ngăn chặn các xung đột về lãnh thổ
Tòa án Công lý Quốc tế (The International Court of Justice: ICJ) được thành lập theo Hiến chương Liên Hiệp Quốc (LHQ) là cơ quan xét xử chính của tổ chức này. Cơ cấu của ICJ là một hội đồng đặc biệt các thẩm phán gồm 15 luật gia uy tín lớn trong lĩnh vực công pháp quốc tế, được lựa chọn không căn cứ trên quốc tịch, tuy nhiên, không thể có hai luật gia cùng quốc tịch.
Thông thường, khi tranh chấp lãnh thổ xảy ra, các quốc gia liên quan  có thể đem vụ việc ra giải quyết bởi ICJ hoặc các cơ quan tài phán chuyên biệt khác (như ITLOS: Toà án Quốc tế của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển hoặc Hội đồng Trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển - UNCLOS).
Chức năng chính của ICJ là giải quyết các tranh chấp cho các nước thành viên dựa trên sự thỏa thuận của các bên tranh chấp và có thẩm quyền tham vấn theo yêu cầu của các cơ quan chuyên môn của Liên Hiệp Quốc (LHQ) (Điều 93 và Điều 96 Hiến chương LHQ).
Theo thống kê của ICJ, từ ngày 22-5-1947 đến 14-5-2014 đã có 160 vụ kiện được giải quyết tại cơ quan tài phán này. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, để hạn chế tối thiểu hậu quả xấu có thể xảy ra từ việc xâm hại lẫn nhau của quốc gia có tranh chấp, các bên có thể đồng thời yêu cầu ICJ áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời  ("BPKCTT") trước khi phán quyết chung thẩm được ban hành (Điều 41 Đạo luật của ICJ (the Statude of the International Courrt of Justrice) và Điều 73 Quy chế của Toà án (the Rules of Court).
Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong thực tiễn công pháp quốc tế
Ở góc độ dân sự, thương mại, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được hiểu nhằm mục đích tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương đơn hoặc để bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có, tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được, hoặc để đảm bảo việc thi hành án sau khi có phán quyết.
Ở khía cạnh hình sự, mục đích biện pháp khẩn cấp cũng để ngăn chặn hành vi phạm tội, gây khó khăn cho quá trình điều tra, xét xử. Trong công pháp quốc tế, quy trình yêu cầu áp dụng BPKCTT tại ICJ được quy định tuần tự từ Điều 73 đến 78 của Quy tắc ICJ.
Theo Điều 73.1 Quy tắc ICJ, một trong các bên có thể gửi đơn yêu cầu ICJ áp dụng BPKCTT bất kỳ thời điểm nào trong quá trình phân xử. Đơn yêu cầu cần có lý do, đề xuất biện pháp yêu cầu, và các hậu quả pháp lý có thể xảy ra nếu đơn yêu cầu này không được chấp nhận, Hội đồng Xét xử (HĐXX) (hoặc  chủ tịch HĐXX trong trường hợp Hội đồng chưa nhóm họp), sẽ ấn định chương trình nghị sự cho phiên họp giải quyết tranh chấp.
Nếu Hội đồng xét xử chưa nhóm họp tại thời điểm yêu cầu thì sẽ được triệu tập ngay vì tính khẩn cấp của vấn đề. Trong một số trường hợp, toà án hoặc HĐXX có thể tự mình xem xét và đưa ra các biện pháp khẩn cấp tạm thời mà một phần hay toàn bộ các bên được yêu cầu phải thực hiện. Vì tính chất khẩn cấp của yêu cầu, ICJ sẽ đặt ưu tiên để giải quyết đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT lên hàng đầu trước khi xem xét nội dung tình tiết đơn kiện. 
Tương tự, Điều 290 Công ước của Liên hiệp quốc về Luật  Biển 1982 cũng cho phép áp dụng những biện pháp bảo đảm (interim measures). Theo đó, nếu một tòa án được đề nghị xét một vụ tranh chấp theo đúng thủ tục và thấy hiển nhiên (prima facie) là mình có thẩm quyền, thì tòa án này có quyền áp dụng một số biện pháp bảo đảm mà mình xét thấy thích hợp để bảo vệ các quyền của từng bên tranh chấp hay để ngăn không cho môi trường của biển bị những tổn thất nghiêm trọng, trong khi chờ phán quyết cuối cùng.
Các biện pháp bảo đảm có thể bị sửa đổi hay hủy bỏ ngay cho phù hợp tình hình cụ thể hoặc các bên tranh chấp đạt được thỏa thuận với nhau. Tòa án thông báo ngay mọi biện pháp bảo đảm cho các bên tranh chấp, và nếu xét thấy thích hợp, thì thông báo cho các quốc gia thành viên khác. Theo đó, các bên tranh chấp phải tuân thủ không chậm trễ các biện pháp bảo đảm theo “án lệnh” của tòa.
Biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ có thể phản ánh một phần hay toàn bộ yêu cầu của bên yêu cầu hoặc buộc bên yêu cầu phải tuân thủ hoặc thực thi. Cơ quan tài phán có quyền hủy bỏ hay sửa đổi các biện pháp khẩn cấp tạm thời khi có yêu cầu của một bên nếu sự hủy bỏ hay thay đổi biện pháp là phù hợp với thực tế.
Các bên yêu cầu thay đổi hay hủy bỏ phải nêu rõ sự thay đổi trên thực tế dẫn tới việc cần hủy bỏ hay điều chỉnh BPKCTT. Trước khi điều chỉnh hay hủy bỏ, HĐXX sẽ cho các bên cơ hội được đưa ra các quan sát của mình liên quan đến vấn đề này.
Các biện pháp khẩn cấp tạm thời chủ yếu có thể áp dụng trong tranh chấp liên quan chủ quyền quốc gia
Trong thực tiễn,  cơ quan tài phán thường căn cứ trên đơn yêu cầu của một bên hoặc tự mình đưa ra các biện pháp tạm thời. Theo đó, các bên buộc phải thực hiện các hành động cụ  thể tại khu vực lãnh thổ có tranh chấp theo án lệnh này. Mỗi bên phải kiềm chế, nghiêm cấm các hoạt động quân sự, nhưng có thể cử lực lượng dân sự thực hiện bảo vệ khu vực lãnh thổ bị tranh chấp. Mỗi bên có trách nhiệm thông báo đến ICJ việc tuân thủ các biện pháp tạm thời trên.
Trong vụ tranh chấp giữa Campuchia và Thái Lan liên quan đến việc phân định chủ quyền ngôi đền Preah Vihear, ngày 28-4-2011, Campuchia đã gửi kiến nghị lên ICJ yêu cầu làm rõ Phán quyết năm 1962 của Tòa án này liên quan đến ngôi đền Preah Vihear.
Ngay thời điểm có đơn, hai bên bắt đầu sử dụng vũ lực, Campuchia đồng thời yêu cầu tòa áp dụng các biện pháp tạm thời trước khi ra phán quyết, bao gồm việc Thái Lan ngay lập tức phải rút quân không điều kiện ra khỏi khu vực khu đền, nghiêm cấm mọi hoạt động quân sự tại khu vực này cũng như cấm bất cứ động thái nào có thể hiểu là làm trầm trọng hóa thêm vụ tranh chấp.
Ngày 18-7-2011, ICJ đã ra án lệnh yêu cầu cả hai phía Thái Lan và Campuchia phải rút hết binh sĩ đang đóng tại khu vực tranh chấp xung quanh ngôi đền để đảm bảo vấn đề an ninh. Thái Lan không được ngăn cản việc Campuchia ra vào ngôi đền cho mục đích phi quân sự. Đồng thời, các bên phải kiềm chế những hành động có thể làm trầm trọng thêm vụ tranh chấp trước Tòa án. Án lệnh này có tác dụng ngăn chặn sự mở rộng và trầm trọng hoá xung đột hạn chế các hành vi leo thang xâm hại về tính mạng và tài sản của nhau.
Ngày 11-11-2013, sau khi ICJ ra phán quyết tuyên bố khu vực quanh đền cổ Preah Vihear thuộc về Campuchia, hai bên đã cùng tuân thủ triệt thoái lực lượng quân sự theo phán quyết của toà án. Trong một án lệnh như vậy, tòa án yêu cầu hai quốc gia này cho phép ASEAN đứng ra làm quan sát viên cho việc tuân thủ án lệnh.
Án lệnh cũng lưu ý trách nhiệm của các quốc gia này phải tuân thủ Hiến chương LHQ, không được sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ  lực để chống lại quốc gia có chủ quyền khác. Trách nhiệm cao nhất của các thành viên LHQ là phải giải quyết vụ việc trên tinh thần hòa bình, an ninh và tôn trọng công pháp.
Trong một tranh chấp khác giữa Costa Rica và Nicaragua về việc xây dựng một con đường tại Costa Rica dọc theo sông San Juan. Costa Rica đã nộp đơn khởi kiện và yêu cầu áp dụng BPKCTT cho ICJ ngày 18-11-2010. Tìm kiếm án lệnh của IJC, Costa Rica yêu cầu Nicaragua ngay lập tức và vô điều kiện dừng toàn bộ các hoạt động nạo vét sông hay bất cứ động thái tương tự trong vùng lãnh thổ đang tranh chấp. Nicaragua cũng được yêu cầu phải rút toàn bộ nhân sự, cơ sở hạ tầng (bao gồm cả lều bạt, doanh trại) và các thiết bị khác (thiết bị nạo vét). Costa Rica sẽ được phép thực hiện các hoạt động tái thiết trong vùng lãnh thổ đang tranh chấp. Các bên sẽ phải lập tức thông báo đến ICJ việc tuân thủ của mình trong vòng 1 tuần kể từ ngày có án lệnh áp dụng BPKCTT của ICJ được ban hành. 
Ngày 8-3-2011, ICJ đã ban hành áp dụng các BPKCTT bao gồm: mỗi bên phải kiềm chế việc cử hoặc duy trì nhân sự bao gồm dân thường, cảnh sát hoặc lực lượng an ninh tại vùng lãnh thổ có tranh chấp, bao gồm cả khu vực kênh đào. Lực lượng dân sự chịu trách nhiệm với việc bảo vệ khu vực bị tranh chấp bao gồm cả khu vực kênh đào, nhưng chỉ được hiện diện khi nào cần thiết để tránh những thiệt hại không thể khắc phục được gây ra đối với phần đất tranh chấp tọa lạc.
Theo án lệnh của tòa án, mỗi bên phải kiềm chế những hành động có thể làm trầm trọng thêm vụ tranh chấp. Ngày 22-11-2013, ICJ tiếp tục ban hành quyết định áp dụng BPKCTT để tái khẳng định các BPKCTT tại quyết định ngày 8-3-2011, đồng thời đưa ra thêm một số biện pháp bổ sung khác như Nicaragua sẽ không thực hiện việc nạo vét sông và các hành động khác trong khu vực tranh chấp kênh đào.
Áp dụng BPKCTT có ngăn chặn việc Trung Quốc “leo thang” sử dụng vũ  lực trên Biển Đông
Tương tự như cơ chế áp dụng BPKCTT của ICJ, Điều 25 của Quy chế của Tòa án Trọng tài Quốc tế về Luật Biển (ITLOS) cũng cho phép các bên yêu cầu áp dụng biện pháp tạm thời (provisional messures). Từ một số án lệ trong công pháp quốc tế liên quan tranh chấp lãnh thổ đề cập ở trên, Việt Nam, với tư cách là thành viên của LHQ, thành viên của UNCLOS 1982, có thể khởi động động thái pháp lý khởi kiện Trung Quốc ra cơ quan tài phán quốc tế như phân tích trên. 
Với diễn biến gần đây, hàng loạt vụ “đâm va” liên tục xảy ra trên  khu vực biển Đông do Trung Quốc khiêu khích khởi xướng trong vùng biển của Việt Nam cho thấy đây không còn là vấn đề có thể thương lượng, hòa giải song phương với quốc gia này.
Một khi nỗ lực đàm phán bất thành, và giải pháp quân sự không phải là lựa chọn của Việt Nam, một dân tộc yêu chuộng hòa bình, thì chỉ có thông qua thủ tục tố tụng công pháp quốc tế - đặc biệt trong một phiên tòa quốc tế quy mô, đồng thời có được Nghị quyết của Hội đồng Bảo an LHQ lên án mạnh mẽ hành vi xâm chiếm lãnh thổ, lãnh hải và cả không phận thuộc quốc gia có chủ quyền khác của Trung Quốc, Việt Nam mới có thể trước mắt ngăn chặn  hành động “leo thang” gia tăng việc tấn công tàu dân sự, tàu chấp chính của Việt Nam.
Một phần chính của biện pháp khẩn cấp thông qua án lệnh của cơ quan tài phán quốc tế, mà nền tảng là xuất phát từ yêu sách pháp lý chính đáng của Việt Nam tuyên buộc Trung Quốc chấm dứt chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam đã bị nước này dùng vũ lực đánh chiếm. Đồng thời, trong khuôn khổ vụ kiện, một nhóm các yêu cầu của Việt Nam cần tìm kiếm trong một án lệnh cho nhóm các biện pháp khẩn cấp tạm thời, bao gồm tuyên buộc Trung Quốc ngay lập tức và vô điều kiện (immediate and unconditional withdrawl):
- Di dời giàn khoan HD 981 ra khỏi vùng lãnh hải có tranh chấp;
- Triệt thoái tàu quân sự, tàu dân sự,  hải cảnh ra khỏi khu vực Lãnh hải;
- Chấm dứt điều động máy bay tuần thám xâm phạm không phận Việt Nam nơi vùng lãnh hải, quần đảo có tranh chấp.
- Chấm dứt các hoạt động khai thác trái phép tại vùng biển có tranh chấp.
Đi kèm là biện pháp thực thi. LHQ có thể cắt cử quan sát viên trong giám sát thực hiện án lệnh của cơ quan tài phán trên cơ sở cả Việt Nam và Trung Quốc là thành viên của LHQ, thành viên của Công ước 1982. Trong một bối cảnh khác, khối ASEAN cũng có thể là quan sát viên trong thực thi án lệnh dựa trên cơ sở Trung Quốc đã chấp nhận là một bên ký kết Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) cùng khối ASEAN mà Việt Nam là thành viên.
Thực tế khó khả thi cho các quốc gia trong khu vực ven Biển Đông như Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei… khi tiến hành đàm phán đơn lẻ với Bắc Kinh để giải quyết cách tranh chấp trên Biển Đông vì tính bất đối xứng (kinh tế, chính trị và quân sự) trong quan hệ song phương với quốc gia lớn nhưng đầy bất trắc hiểm họa như Trung Quốc.
Do vậy về lâu dài và căn cơ hơn, cũng như Philippines, có lẽ Việt Nam cần tìm kiếm một giải pháp pháp lý quốc tế đầy đủ, nhất quán và toàn diện hơn nhằm xác lập lại chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, bao gồm quyền chiếm giữ thực thể toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của chúng ta.
(*)Trọng tài viên Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam

Thursday, 15 May 2014

Xung đột biển đông: Từ án lệ Philippines kiện Trung Quốc

Châu Huy Quang
Hành lang pháp lý cho vụ Philippines khởi kiện Trung Quốc
Công ước của Liên hiệp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) là một trong những văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng và đầy đủ nhất quy định cơ chế giải quyết tranh chấp liên quan đến vùng biển giữa các quốc gia thành viên. Là một quốc gia thành viên, Philippines đã sử dụng các quy định của UNCLOS để khởi động vụ kiện phản đối yêu sách của Trung Quốc đối với các khu vực trên biển Đông và các vùng biển mà Trung Quốc không có quyền theo UNCLOS nhưng cấu thành vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philippines.
Hướng tới mục tiêu tôn trọng đàm phán và thỏa thuận giữa các quốc gia có tranh chấp, UNCLOS quy định các quốc gia thành viên có nghĩa vụ giải quyết tranh chấp bằng phương thức hòa bình, tuân thủ nghĩa vụ tham vấn lẫn nhau và nỗ lực thương lượng để giải quyết tranh chấp (điều 279, điều 283, điều 284 UNCLOS). Cơ chế tài phán được đặt ra chỉ khi những nỗ lực đàm phán không thành (phần XV mục 2 UNCLOS). Trên cơ sở đó, khi xảy ra tranh chấp, các bên được quyền tự do lựa chọn một hoặc các phương thức giải quyết tranh chấp thông qua Toà án Quốc tế về Luật Biển (ITLOS) theo phụ lục VI, Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ), Hội đồng Trọng tài (“HĐTT”) thành lập theo phụ lục VII của UNCLOS hoặc Hội đồng Trọng tài Đặc biệt theo phụ lục VIII (điều 287 UNCLOS). Điều này đồng nghĩa với việc Philippines có thể vừa kiện Trung Quốc ra ITLOS vừa kiện ra HĐTT theo phụ lục VII hoặc tiếp tục khởi kiện ra ICJ hoặc HĐTT đặc biệt như tình hình hiện nay.
Trong vụ tranh chấp của Philippines, mặc dù bị đơn Trung Quốc là một thành viên của UNCLOS, nhưng họ tuyên bố viện dẫn các ngoại lệ để loại bỏ thẩm quyền thụ lý vụ án của các cơ quan tài phán trên đối với các tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng các điều 15, 74 và 83 về phân định ranh giới biển, không liên quan đến vịnh, các hoạt động quân sự và các hoạt động khác của Hội đồng Bảo an (điều 298 UNCLOS).
Trong bối cảnh này, nguyên đơn là Philippines buộc phải chứng minh được vùng biển Đông tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan tài phán tại UNCLOS và các viện dẫn của Trung Quốc không phải là ngoại lệ loại trừ thẩm quyền tài phán của các cơ quan này.
Cơ chế giải quyết tranh chấp cho vụ kiện của Philippines theo UNCLOS
Thực tế, Philippines đã tuân thủ chặt chẽ UNCLOS bằng nỗ lực tham vấn với Trung Quốc một cách rộng rãi nhằm giải quyết tranh chấp trên cơ sở thương lượng. Khi nỗ lực không kết quả với một nước lớn áp đặt như hành xử của Trung Quốc, ngày 22-1-2013, Philippines đã chủ động khởi kiện vụ việc yêu cầu HĐTT theo phụ lục VII UNCLOS phân xử và cũng trong năm 2013, Philippines đồng thời yêu cầu ITLOS giải quyết vụ việc. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn tiếp tục luận điểm “tránh quốc tế hóa vụ việc” mà ưu tiên giải quyết các tranh chấp này thông qua đàm phán song phương và tìm cách bác bỏ thẩm quyền tài phán của HĐTT theo phụ lục VII hay bất kỳ cơ quan tài phán nào theo cơ chế UNCLOS.
Đồng thời, Trung Quốc đã viện dẫn Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông (“Tuyên bố”) cho rằng đơn kiện của Philippines đã vi phạm các nguyên tắc trong Tuyên bố và đang làm phức tạp hơn các xung đột trong khu vực. Theo điều 5 của tuyên bố này, các nước thành viên được yêu cầu giải quyết tranh chấp lãnh thổ và quyền tài phán bằng biện pháp hòa bình, mà không cần đến các mối đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, thông qua hiệp thương hữu nghị và đàm phán của các quốc gia có chủ quyền trực tiếp liên quan. Đây có lẽ là cách
Trung Quốc lẩn tránh ràng buộc pháp lý đối với phán quyết của HĐTT và/hoặc ITLOS có thể gây bất lợi cho mình.
Động thái đơn phương khởi kiện của Philippines là giải pháp tối ưu hóa và hợp pháp hóa theo chuẩn mực quốc tế sau khi nỗ lực thương lượng hòa bình không thành công. Là nước láng giềng lớn, có ưu thế áp đặt khi đàm phán song phương, chiến thuật lẩn tránh trách nhiệm đối với quốc gia thành viên tại diễn đàn pháp lý quốc tế cho thấy Trung Quốc vẫn quanh co cho rằng việc phân định và kiểm soát các khu vực hàng hải và xác định chủ quyền chỉ là việc song phương. Trong khi nội dung đơn kiện của Philippines là các vấn đề thuộc về chủ quyền đối với phân định biển được quy định tại Phần XV của UNCLOS. Đây là cơ sở để Philippines tự tin tiếp tục vụ kiện nhằm phủ định lập luận của Trung Quốc cho rằng UNCLOS không thể quyết định về các vấn đề lãnh thổ của quốc gia ven biển.
Rủi ro pháp lý khi Trung Quốc từ chối tham gia tố tụng ở trọng tài quốc tế?
Trong vụ kiện này, một HĐTT được thành lập bao gồm năm thành viên, hiện do trọng tài viên quốc tịch Ghana làm chủ tịch (các trọng tài viên khác gồm các quốc tịch Pháp, Ba Lan, Hà Lan và Đức). Nguyên đơn được chỉ định một thành viên trọng tài cho mình (điều 3 phụ lục VII của Công ước). Bị đơn trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo có quyền đề cử trọng tài viên cho mình. Ba thành viên khác sẽ được chỉ định theo thỏa thuận giữa các bên. Tuy nhiên, Trung Quốc từ chối tham gia và không chỉ định trọng tài cho mình. Theo đó, chủ tịch HĐTT chỉ định tất cả bốn trọng tài viên còn lại.
Quy trình tố tụng trọng tài quốc tế vẫn tiếp tục khi Philippines đệ trình đầy đủ hồ sơ vụ kiện lên HĐTT mà không bị tác động bởi việc Trung Quốc có tham gia tố tụng hoặc có đệ trình phản tố hay không (điều 9 phụ lục VII UNCLOS). Cụ thể, điều 9 quy định sự vắng mặt hay không thực hiện quyền phản tố của một bên không ảnh hưởng đến thủ tục tố tụng và phán quyết của HĐTT. Về kỹ thuật Trung Quốc có thể sẽ phản đối về thẩm quyền tài phán của HĐTT bằng việc vận dụng quy định tại điều 298 của UNCLOS như phân tích ở trên một khi phán quyết bất lợi cho họ.
Như vậy, một trong các trở ngại pháp lý lớn nhất là khả năng thi hành phán quyết của HĐTT nếu Trung Quốc không tự nguyện thực thi. Cần lưu ý cả Philippines và Trung Quốc đều bị ràng buộc bởi phán quyết của HĐTT khi họ là thành viên công ước này (khoản 5, điều 287 UNCLOS). Thông thường nếu bên có tranh chấp không đưa ra được các căn cứ phản tố vững chắc về mặt nội dung, họ sẽ tập trung vào hình thức tố tụng vụ kiện.
Vấn đề pháp lý là liệu một HĐTT, tòa án quốc tế có thẩm quyền tài phán đối với nguyên đơn, bị đơn là quốc gia hay không luôn gây ra các tranh cãi pháp lý trước khi xem xét phân định nội dung tranh chấp.
Theo thời hạn ấn định của HĐTT, vào ngày 30-3-2014 nguyên đơn Philippines đã nộp bổ sung luận cứ đầy đủ 4.000 trang cho toàn bộ vụ kiện của mình bao gồm các yêu cầu tuyên bố chủ quyền, khẳng định thẩm quyền tài phán của trọng tài và các yêu cầu bồi thường khác.
Mong đợi gì từ “án lệ” Philippines kiện Trung Quốc
Thời gian để đưa ra một phán quyết mang tính nhạy cảm, phức tạp như trên có thể kéo dài vài năm, nhất là khi một trong các bên tranh chấp tuyên bố không tuân thủ phán quyết của trọng tài liên quan đến thẩm quyền tài phán. Tuy nhiên, phán quyết từ chế định trọng tài như của Tòa án Quốc tế về Luật Biển (ITLOS) hoặc HĐTT theo phụ lục VII UNCLOS vẫn là các văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng có ý nghĩa xác định chủ quyền hợp pháp, quyền và lợi ích hợp pháp của các quốc gia ven biển. Là nước lớn, nếu Trung Quốc bất tuân thủ phán quyết họ sẽ chịu điểm trừ trầm trọng về hình ảnh quốc gia, và bị công luận quốc tế lên án.
Trong công cuộc đấu tranh dựa trên nền tảng lương tri và tôn trọng luật pháp quốc tế, Việt Nam có thể tiến hành vụ kiện Trung Quốc ra ITLOS, Tòa án Công lý (ICJ) hoặc HĐTT theo phụ lục VII của công ước để đáp trả các hành động “leo thang” xâm phạm trực tiếp vùng biển chủ quyền của Việt Nam. Trong khuôn khổ một vụ kiện quốc tế như vậy, chúng ta có thể đồng thời yêu cầu HĐTT, tòa án quốc tế áp dụng các biện pháp khẩn cấp ngăn chặn các hành vi xâm chiếm, tấn công, phá hoại tài sản hợp pháp của công dân và các cơ quan chấp pháp đang thực thi công vụ trên phần lãnh hải của Việt Nam.
Đối với Việt Nam, hành vi xâm phạm của Trung Quốc ra tòa án công lý, trọng tài quốc tế cũng là một biện pháp phù hợp và nhất quán với chính sách ngoại giao hòa bình của Việt Nam và luật pháp quốc tế.

Tuesday, 6 May 2014

Dân doanh cần biết quyền để phòng vệ

LS. Châu Huy Quang (*)



Trong phạm vi bài viết này, lấy ví dụ từ sự việc vừa xảy ra tác giả nêu lên một số vấn đề doanh nghiệp cần biết để “tự phòng vệ” trong trường hợp có dấu hiệu lạm quyền từ phía cơ quan quản lý hành chính có thẩm quyền.
1. Xử lý vi phạm hành chính cần những điều kiện gì?
Hiện nay hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng được điều chỉnh bởi Nghị định 24/2012/NĐ-CP ngày 3-4-2012. Khoản 2 điều 19 nghị định này quy định hoạt động kinh doanh vàng miếng cần có giấy phép do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cấp. Khoản 2 điều 14 Luật Xử lý vi phạm Hành chính 2012 (Luật XLVPHC) quy định trách nhiệm phòng, chống vi phạm hành chính quy định khi phát hiện hành vi VPHC, người có thẩm quyền có trách nhiệm xác minh xử lý vi phạm. Điều này đồng nghĩa việc xử lý chỉ có thể thực hiện khi phát hiện có vi phạm trên thực tế. Khoản 1 điều 59 luật này quy định về việc người có thẩm quyền xử lý VPHC trước khi xem xét ra quyết định xử phạt phải có trách nhiệm xác minh có hay không có hành vi VPHC.
Như vậy, trong trường hợp có căn cứ thực tế, người có thẩm quyền xử lý có quyền tiến hành khám xét, xác minh tang vật vi phạm, xác định các phương tiện có liên quan đến hành vi vi phạm, nhằm xác định giá trị tang vật vi phạm làm cơ sở cho việc xác định khung tiền phạt và thẩm quyền xử phạt theo quy định pháp luật. Nói cách khác phải có hành vi VPHC xảy ra trong thực tế làm nguyên cớ cho cơ quan quản lý hành chính áp dụng các biện pháp nghiệp vụ khác, bao gồm khám xét chỗ ở.
Trong vụ việc Hoàng Mai, đối với tình tiết nghi vấn “kinh doanh vàng miếng trái phép”, trường hợp không phát hiện quả tang hoặc không đủ căn cứ cho kết luận hành vi kinh doanh vàng miếng trái phép, thì việc công an quận đề xuất (Công văn số 246/CAQ (KT-CV) ngày 22/4/2014) lên chủ tịch quận đề nghị phê chuẩn lệnh khám xét hành chính nhằm mục đích tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm là đã vượt quá khuôn khổ pháp luật cho phép trong một vụ việc xử lý VPHC liên quan đến giao dịch ngoại tệ, vàng.
2. Căn cứ phân biệt tang vật, phương tiện liên quan đến vi phạm với các tài sản khác của doanh nghiệp?
Tài sản của doanh nghiệp cần phân biệt tách bạch với tài sản riêng của cá nhân, tổ chức. Ngay cả trong trường hợp cơ quan chức năng có cơ sở xác định trước hành vi vi phạm của Hoàng Mai thì việc khám xét khẩn cấp nơi có tình nghi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính vừa là trụ sở giao dịch doanh nghiệp đồng thời là nhà ở như trường hợp này cũng cần phải thận trọng. Pháp luật hiện không cấm người dân, doanh nghiệp cất trữ vàng, kim loại quý thậm chí góp vốn vào doanh nghiệp bằng vàng, kim loại quý (điều 30.1 Luật Doanh nghiệp 2005). Vì vậy, cần phân định rõ tài sản của doanh nghiệp tại trụ sở giao dịch của doanh nghiệp với tài sản thuộc sở hữu cá nhân, cất trữ tại chỗ ở. Trong trường hợp Hoàng Mai, nếu chỉ có bằng chứng duy nhất là có thu mua ngoại tệ 100 đô la Mỹ thì việc khám xét, niêm phong toàn bộ số vàng đang có tại trụ sở, chỗ ở của chủ doanh nghiệp dễ dẫn đến nguy cơ xâm phạm quyền sở hữu tài sản của tổ chức, cá nhân được luật pháp thừa nhận và bảo vệ.
3. Không bắt quả tang hành vi vi phạm hành chính có được được khám xét chỗ ở?
Khoản 1 điều 129 Luật XLVPHC quy định việc khám xét nơi cất giấu tang vật, phương tiện VPHC chỉ được tiến hành khi có căn cứ cho rằng ở nơi đó có cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm. Theo đó, cơ quan chức năng cần phải đưa ra căn cứ về việc VPHC của đối tượng.
4. Đối tượng và phạm vi khám xét liên quan đến vi phạm hành chính được xác định như thế nào?
Trong thực tế, có những trường hợp cần thiết không cần bắt quả tang hành vi VPHC vẫn có thể áp dụng biện pháp khám xét hành chính nếu có căn cứ, dấu hiệu xác định đối tượng có hành vi vi phạm. Việc cơ quan chức năng đã bỏ niêm phong số vàng miếng, trả lại camera an ninh nhưng không chứng minh được hành vi “kinh doanh vàng miếng trái phép” của Hoàng Mai nhưng trước đó đã kết hợp khám xét khẩn cấp, niêm phong số vàng, ngoại tệ khác dường như đã vượt quá khuôn khổ luật pháp cho phép.
Trường hợp cơ quan công an cho rằng cần niêm phong số tài sản này để xác minh nguồn gốc sở hữu cũng là không phù hợp để áp đặt cho đối tượng bị khám xét, dễ vượt quá phạm vi khám xét hành chính. Việc niêm phong, thu giữ đối tượng VPHC cần xử lý là hành vi kinh doanh ngoại tệ trái phép cần tách bạch với đối tượng là tài sản doanh nghiệp hay tài sản cá nhân của chủ doanh nghiệp và người thân khác nhất là khi không có căn cứ cho thấy nơi đây kinh doanh vàng miếng trái phép.
5. Trường hợp địa điểm kinh doanh đồng thời là chỗ ở thì cơ quan có thẩm quyền có được khám xét toàn bộ phạm vi nhà ở?
Khoản 9 điều 2 Luật XLVPHC quy định “Chỗ ở là nhà ở, phương tiện hoặc nhà khác mà công dân sử dụng để cư trú. Chỗ ở thuộc quyền sở hữu của công dân hoặc được cơ quan, tổ chức, cá nhân cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ theo quy định của pháp luật”.
Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân là quyền Hiến định. Pháp luật hiện hành quy định việc tổ chức khám xét trái pháp luật chỗ ở của người khác là hành vi của người không có thẩm quyền hoặc người tuy có thẩm quyền do luật định nhưng không chấp hành theo đúng các trình tự, thủ tục do luật định về căn cứ, thẩm quyền ra lệnh, thủ tục khám xét. Theo quy định này, việc thực hiện sai thủ tục khám xét hoặc vượt quá phạm vi khám xét có thể xem là hành vi vi phạm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân và cần phải được xử lý nghiêm minh.
6. Doanh nghiệp cần làm gì để bảo vệ quyền lợi hợp pháp?
Vụ việc gây dậy sóng dư luận như vụ Hoàng Mai, có lẽ một phần xuất phát từ cách ứng xử mang tính “thị uy” quyền lực của cơ quan chức năng, vượt quá khuôn khổ một vụ xử lý VPHC thông thường. Ngoài thực thi chức năng quản lý hành chính nhà nước đơn thuần, vụ việc còn cho thấy việc “lấn sân” về thẩm quyền tố tụng (hình sự thay vì hành chính) từ phía các cơ quan công quyền.
Dân doanh cần biết quyền của mình để “tự phòng vệ” trong trường hợp có dấu hiệu lạm quyền từ phía cơ quan quản lý hành chính có thẩm quyền. Trong xử lý vi phạm hành chính, một số hành vi nghiêm cấm đối với người có thẩm quyền bao gồm việc xử phạt vi phạm hành chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả hoặc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính không kịp thời, không nghiêm minh, không đúng thẩm quyền, thủ tục, đối tượng (khoản 5, điều 12 Luật XLVPHC). Trong trường hợp bị áp dụng biện pháp xử lý VPHC mà không có căn cứ theo quy định pháp luật, cá nhân, tổ chức bị xâm hại có quyền yêu cầu cơ quan tiến hành tạm giữ, trả tài sản trong thời hạn luật định (7 ngày kể từ ngày tạm giữ, thời hạn này có thể được kéo dài nhưng tối đa không quá 30 ngày).
Đồng thời, cá nhân, tổ chức bị xâm hại có quyền khiếu nại, khởi kiện quyết định, hành vi hành chính và yêu cầu bồi thường đối với các thiệt hại do quyết định, hành vi hành chính này gây ra. Ngoài ra, tùy mức độ vi phạm, người vi phạm có thể bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự (điều 18.2 Nghị định 81/2013/NĐ-CP), nếu gây thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường.
Tưởng cũng cần nhắc lại rằng chỗ ở của công dân là bất khả xâm phạm được quy định tại Hiến pháp. Do vậy, việc khám xét chỗ ở của công dân được pháp luật quy định quy trình chặt chẽ, đặc biệt. Không phải bất cứ hành vi vi phạm quan hệ pháp luật dân sự, hành chính thậm chí hình sự nào cũng tất yếu phải bị khám xét khẩn cấp chỗ ở, kê biên, lục soát thu giữ tài sản khác của đối tượng vi phạm. Trường hợp khám xét chỗ ở của công dân, doanh nghiệp không đúng với quy định đều là hành vi xâm phạm chỗ ở của công dân. Sự bất cẩn hoặc tùy tiện trong hành xử hành chính chuyên quyền, cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm chỗ ở của công dân theo quy định của pháp luật hình sự.
(*) Luật sư điều hành hãng luật Rajah & Tann LCT Lawyers