Sunday, 5 June 2016

Hội Nhập Cộng Đồng Kinh Tế Asean: Tác Động Đối Với Thị Trường Lao Động Việt Nam

HỘI NHẬP CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN: TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM

Luật sư Nguyễn Hữu Phước/ Luật sư Châu Huy Quang

Theo thống kê của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, tính đến cuối năm 2014, Việt Nam có hơn 75.000 lao động nước ngoài đang làm việc, với khoảng 90% trong số đó thuộc diện phải cấp phép. Nhu cầu sử dụng nhân sự người nước ngoài tại các doanh nghiệpViệt Nam ở mức cao và có xu hướng gia tăng.

Trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực cũng như thế giới thông qua ký kết Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và chính thức gia nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (“AEC”) từ cuối năm 2015, Việt Nam đặc biệt kỳ vọng sẽ tận dụng được các cơ hội từ việc hội nhập, nhất là từ cộng đồng AEC để chuyển dịch tích cực cơ cấu sử dụng lao động trong nước.


AEC là khu vực kinh tế chung gồm 10 quốc gia thành viên ASEAN. Một trong những mục tiêu chính yếu của AEC là hình thành một thị trường chung cho các nước thành viên, chú trọng vào việc thực thi quyền tự do di chuyển hàng hóa, cung cấp dịch vụ, tự do di chuyển vốn và đặc biệt là tự do di chuyển lao động có kĩ năng giữa các nước thành viên.

Vấn đề tự do di chuyển lao động gây không ít quan ngại cho các nước đang phát triển như Việt Nam.

Những năm trở lại đây, phần lớn lao động di chuyển giữa các nước ASEAN đã dần hình thành một tiền lệ, rằng lao động phổ thông có xu hướng di chuyển từ các nước đang phát triển đến các nước phát triển. Trong bối cảnh đó, AEC đã đưa ra yêu cầu đòi hỏi các nước thành viên phải thúc đẩy dịch chuyển lao động có tay nghề trong nhiều lĩnh vực để các quốc gia thành viên có cơ hội tiếp cận nguồn lực lao động với trình độ chuyên môn cao.

Theo đó, các thành viên trong AEC đã ký kết 08 Thỏa thuận Thừa nhận Lẫn nhau (Mutual Recognition Agreement – MRAs) đối với các ngành nghề như dịch vụ kiểm toán, kiến trúc, kỹ thuật, đo đạc, y khoa, điều dưỡng, nha khoa và du lịch. Các MRAs này cho phép chứng chỉ của lao động có tay nghề được cấp bởi cơ quan quản lý lao động tại một quốc gia sẽ được thừa nhận bởi các nước thành viên khác trong khu vực.

Cam kết của Việt Nam về lao động khi gia nhập AEC

Bên cạnh các MRAs nêu trên, một cam kết quan trọng khác mà Việt Nam đã ký kết liên quan đến lĩnh vực lao động khi gia nhập AEC là Hiệp Định ASEAN Về Dịch chuyển Thể nhân (Agreement On Movement of Natural Person – MNP) vào tháng 11/2012. MNP tạo điều kiện thuận lợi cho các thể nhân của quốc gia thành viên có thể tham gia vào các hoạt động thương mại và đầu tư của các quốc gia thành viên. Ví dụ như tại Điều 13 MNP quy định rằng, khi xem xét việc một thể nhân của một nước thành viên (thành viên A) di chuyển vào một nước thành viên (thành viên B) hoặc một nước không phải thành viên trong AEC (thành viên C), nếu thành viên A đối xử có lợi cho thể nhân của thành viên B hoặc thành viên C thì thành viên A cũng phải đối xử tương tự với thể nhân của các quốc gia thành viên còn lại bằng việc công nhận cho các thể nhân này di chuyển vào quốc gia A, khi họ chứng minh được rằng trình độ học vấn, kinh nghiệm, giấy phép, chứng chỉ của họ đáp ứng được các yêu cầu của thành viên A.

Về phía Việt Nam, các cam kết về lao động của Việt Nam trong MNP cũng ghi nhận một số nội dung mới nổi bật.  Đối với những người lao động nước ngoài (“NLĐNN”) di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp từ nước thành viên sang Việt Nam, những lao động này được phép nhập cảnh và lưu trú trong thời hạn 3 năm đầu tiên và có thể được gia hạn theo thời gian hiện diện thương mại của họ tại Việt Nam. Cùng với đó, mỗi doanh nghiệp nước ngoài được phép có ít nhất 03 nhà quản lý, giám đốc điều hành và chuyên gia không phải công dân Việt Nam. Đối với các nhân sự khác (nhà điều hành quản lý, chuyên gia), họ sẽ được phép lưu trú theo thời hạn của hợp đồng lao động hoặc được lưu trú theo thời hạn 03 năm đầu tiên, sau đó được gia hạn. Biểu cam kết cụ thể của Việt Nam được kèm theo Nghị Quyết Số 76/NQ-CP ngày 15/11/2012 của Chính Phủ về phê duyệt nội dung và ký Hiệp Định ASEAN Về Di Chuyển Thể Nhân.

AEC tác động đến thị trường lao động trong nước

Bên cạnh các thuận lợi mà AEC mang lại, Việt Nam đối diện với các thách thức lớn khi tham gia vào sân chơi chung này. Một chính sách hội nhập tốt có thể sẽ giúp tăng năng suất nguồn lao động trong nước thông qua việc dịch chuyển lực lượng lao động có tay nghề. Do vậy, thị trường sức lao động Việt Nam có nhiều lựa chọn hơn, đồng thời, cạnh tranh quyết liệt hơn. Một khi thông qua các MRAs và MNP, các lao động có tay nghề cao từ các nước thành viên khác vào Việt Nam có thể gây thiếu hụt việc làm cho chính lực lượng lao động Việt Nam.

Theo thống kê vào cuối năm 2015, Việt Nam hiện đang là nước có lực lượng lao động phát triển với 70% dân số đang ở độ tuổi lao động (tức hơn 60 triệu người). Tuy nhiên, tỉ lệ thất nghiệp trong các năm vừa qua cũng đang tăng đều (2,31% trong năm 2015 so với 2,18% năm 2014).

Như đã đề cập, lượng đầu tư FDI tăng cũng đồng nghĩa với việc gia tăng số lượng lao động nước ngoài tham gia quản lý, điều hành các doanh nghiệp thành lập tại Việt Nam. Tính đến năm 2015, tổng vốn đầu tư của 8 nước ASEAN vào Việt Nam đạt 53 tỷ USD với 2.507 dự án, chiếm 14% tổng số dự án và 20% tổng vốn đầu tư của cả nước. Con số này cũng thể hiện phần nào sức ép mà lao động Việt Nam sẽ phải cạnh tranh trong các năm sắp tới.

Ngoài ra, vấn đề quản lý lao động nước ngoài cũng đang là bài toán nan giải. Hiện nay, một số địa phương tại Việt Nam đang lâm vào tình trạng không kiểm soát được số lượng lao động nước ngoài không phép tại Việt Nam. Cụ thể, tại Ninh Thuận đang có gần 1500 người Trung Quốc theo diện du lịch tự do, trong đó số lượng người lao động “chui” là không nắm được.

Việc lao động nước ngoài làm việc không phép dẫn tới nhiều phức tạp trong hoạt động trị an của từng địa phương. Hiện nay, tuy Nghị định 95/2013/NĐ-CP của Chính Phủ cho phép trục xuất NLĐNN không phép và xử phạt người sử dụng lao động đến 75.000.000 VNĐ khi sử dụng 21 NLĐNN không phép trở lên, nhưng theo đánh giá, việc thực hiện quy định này còn chưa khả thi do mức phạt còn khá thấp cũng như bộ máy thanh tra lao động còn mỏng, chưa thực sự mạnh để nắm bắt toàn bộ lao động mình đang quản lý tại địa phương.

Mặt khác, cũng quan ngại là VN dường như chưa có đối sách hiệu quả nào cho xu hướng “chảy máu chất xám” khi lượng lớn lao người lao động có tay nghề của rời đất nước để đi tìm những công việc có thu nhập cao hơn, môi trường làm việc tốt hơn ở  các nước thành viên khác.

Cùng với TPP, chế định tự do dịch chuyển nguồn lao động trong AEC cũng sẽ thúc đẩy quá trình thay đổi quy định của pháp luật lao động Việt Nam để đảm bảo tương thích với cam kết quốc tế về lao động. Trong đó, việc điều chỉnh các phúc lợi cho người lao động theo hướng quy định chặt chẽ hơn, thực thi nghiêm túc hơn sẽ tăng gánh nặng về chi phí bảo hiểm xã hội, y tế, các phúc lợi trợ cấp, làm tăng đột biến chi phí hoạt động của doanh nghiệp. Từ ngày 01/01/2016 khi Luật BHXH 2014 có hiệu lực, sẽ thay đổi cách tính tiền lương theo hướng là tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH sẽ bao gồm mức lương và phụ cấp lương. Thực thi quy định này, doanh nghiệp phải đóng BHXH cho người lao động là 18% quỹ tiền lương được tính trên tổng mức lương và phụ cấp lương mà người lao động hưởng, so với việc đóng theo quỹ tiền lương đóng BHXH riêng như các năm trước đây.

Việt Nam cần chuẩn bị gì khi tham gia AEC

Để tránh bỡ ngỡ, và hội nhập toàn diện và sâu sắc khi trở thành thành viên của AEC, Việt Nam cần chú trọng đến chính sách nâng cao nội lực cho lao động Việt Nam. Đầu tư ngân sách vào đào tạo tay nghề, và chống “chảy máu chất xám” là nhiệm vụ thực hiện liên tục lâu dài. Thêm nữa, Việt Nam có đủ hàng rào kỹ thuật hữu hiệu để sàng lọc lực lượng lao động trình độ tay nghề thấp, mà trong thực trạng trước mắt là lực lượng công nhân đến từ quốc gia ngoài AEC như Trung Quốc. Đồng thời, thắt chặt việc kiểm tra giám sát NLĐNN không phép để có thể hạn chế tình trạng cạnh tranh “không lành mạnh” với lực lượng lao động trong nước.

Ngoài ra, việc điều chỉnh chính sách thuế thu nhập cá nhân hợp lý hơn theo đúng lộ trình đến năm 2020 tại Quyết định số 732/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ cũng là cần thiết để cải thiện sức cạnh tranh của thị trường lao động Việt Nam so với các nước trong khu vực.

Việc gia nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN năm 2015 trong một chừng mực nào đó sẽ hỗ trợ thúc đẩy tăng tưởng GPD của Việt Nam và tăng trưởng việc làm. Nhưng điều này chỉ có thể đạt được hiệu quả nếu có được sự phối hợp nhịp nhàng giữa à Chính phủ, lực lượng doanh nghiệp và lực lượng lao động Việt Nam. Ngoài ra, nếu thiếu hoạch định một lộ trình chuẩn bị, khi AEC được thực thi toàn diện, Việt Nam dễ rơi vào tình huống như khi gia nhập WTO, đó là khi cam kết mở cửa thị trường dần dỡ bỏ, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của người lao động chưa được cải thiện đáng kế, nguy cơ “mất bóng” ngay trên phần sân nhà là đáng quan ngại.



Luật sư thành viên P&P ;
Luật sư thành viên R&T LCT Lawyers; Trọng tài viên VIAC;