Tuesday, 24 May 2016

Nới lỏng chính sách thuế cần đồng bộ với giám sát thực thi

(TBKTSG) - Tại phiên họp thường kỳ Chính phủ tháng 4, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã khẳng định sẽ nới lỏng các chính sách thuế, tài chính như một cách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp. Doanh nghiệp nhìn nhận và kỳ vọng như thế nào về cam kết này. Và liệu chỉ nới lỏng chính sách thôi thì đã đủ hay chưa? TBKTSG đã có cuộc trao đổi với ông Châu Huy Quang, Luật sư Điều hành Rajah & Tann LCT Lawyers, Trọng tài viên - Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC); ông Hà Xuân Anh, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần May Sơn Việt; ông Nguyễn Ngọc Tuấn, Giám đốc Công ty Beboss Training.

Việc giảm thuế, phí là biện pháp tháo gỡ cấp bách, giúp doanh nghiệp có nguồn tái sinh, tăng “sức đề kháng”.
LS. Châu Huy Quang
- LS. CHÂU HUY QUANG: Theo tôi, đây là tín hiệu đáng mừng. Cam kết này cho thấy Chính phủ đang nỗ lực tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, đặc biệt là khối doanh nghiệp tư nhân, nâng cao sức cạnh tranh và quyền tự chủ của họ.
Thống kê của Cục Quản lý đăng ký kinh doanh (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho thấy trong quí 1-2016 đã có khoảng 23.000 doanh nghiệp ngừng hoạt động hoặc giải thể, phần lớn là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Con số này đã liên tục gia tăng từ năm 2013 đến nay. Khó khăn từ thuế, phí, gánh nặng tài chính, môi trường đầu tư không minh bạch, không thân thiện, khó tiếp cận vốn... là một số yếu tố chính góp phần vào bức tranh chung này. Do vậy, việc giảm thuế, phí là biện pháp tháo gỡ cấp bách, giúp doanh nghiệp có nguồn tái sinh, tăng “sức đề kháng”.
Điều này càng có ý nghĩa trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn diện hiện nay. Doanh nghiệp trong nước đang phải chịu áp lực cạnh tranh cao từ khu vực vốn đầu tư nước ngoài, hàng hóa sản xuất ra phải chịu áp lực “nhường sân nhà” cho hàng nhập khẩu trong quá trình Việt Nam thực hiện các hiệp định thương mại tự do (FTAs), tham gia Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) và sắp tới là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Doanh nghiệp có thể bị loại ngay khỏi cuộc chơi này nếu thiếu năng lực cạnh tranh mà trong đó, nguồn vốn, tiềm lực tài chính là những yếu tố chính yếu.
Cũng cần nói thêm là Việt Nam đã duy trì chính sách thuế áp lên doanh nghiệp cao hơn nhiều nước ở khu vực trong nhiều năm trước. Do vậy, các chính sách hỗ trợ thuế khóa; miễn, giảm, giãn thu thuế; điều tiết thị trường vốn, giảm lãi suất vốn vay đồng thời với các biện pháp chống tệ tham ô, hối lộ làm doanh nghiệp phát sinh các chi phí phi chính thức đang được cam kết thúc đẩy. Tôi tin nếu làm được một cách đồng bộ, nhất quán thì sẽ có tác động trực tiếp, tích cực cho sự phát triển của doanh nghiệp.
- Ông HÀ XUÂN ANH: Hiện tại, doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt với những áp lực cạnh tranh gay gắt ngay tại sân nhà khi mà các hiệp định thương mại từng bước có hiệu lực. Tôi hy vọng việc nới lỏng chính sách thuế và tài chính sẽ tăng thêm sức cạnh tranh cho doanh nghiệp, là đòn bẩy để doanh nghiệp đẩy mạnh đầu tư và tái đầu tư, sẵn sàng cho cuộc chiến với hàng hóa nhập khẩu.
Trước đây, doanh nghiệp chúng tôi cũng từng kỳ vọng sẽ có nhiều thay đổi sau những cam kết của lãnh đạo Chính phủ nhưng không phải lúc nào mọi thứ cũng như mong muốn. Nhưng tôi cho rằng lần này sẽ có những thay đổi lớn.
- Ông NGUYỄN NGỌC TUẤN: Trước mắt, cam kết này của người đứng đầu Chính phủ có ý nghĩa về mặt tinh thần. Nó đem đến sự hứng khởi cho khối doanh nghiệp tư nhân - thành tố được xác định là động lực phát triển của nền kinh tế, và nó tiếp sức cho những người đang có ý định khởi nghiệp.
Tôi tin rằng với cam kết lần này của Thủ tướng, các bộ, ngành sẽ phải có những thay đổi theo tinh thần đồng hành, phục vụ doanh nghiệp chứ không phải là kiểm tra, thanh tra như lâu nay.
TBKTSG: Bộ Tài chính đang xây dựng dự thảo nghị quyết về phát triển doanh nghiệp với phương án miễn thuế thu nhập trong năm đầu tiên đối với doanh nghiệp mới thành lập; mở rộng chi phí giảm trừ cho các doanh nghiệp tư vấn, hỗ trợ thủ tục, doanh nghiệp xã hội; giảm thuế suất thêm hai đến ba điểm phần trăm cho doanh nghiệp nhỏ... Theo các ông, như vậy đã “điểm” đúng những nhu cầu hiện tại của doanh nghiệp chưa?
Chính sách về thuế, phí có phù hợp thì doanh nghiệp mới có thể cạnh tranh công bằng với doanh nghiệp nước ngoài về đầu vào, về giá thành sản phẩm.
Ông Hà Xuân Anh
- Ông HÀ XUÂN ANH: Đây chỉ là một số trong rất nhiều điều kiện cần để doanh nghiệp phát triển. Doanh nghiệp còn cần nhiều điều kiện thuận lợi khác như môi trường kinh doanh bình đẳng và minh bạch, cơ sở hạ tầng giao thông, hệ thống luật pháp, thủ tục hành chính...
Bên cạnh đó, chính sách gì, mức thuế ra sao... cũng phải được xem xét trong tương quan với các nước xung quanh, bởi đây là thời đại hội nhập, các doanh nghiệp không chỉ lo cạnh tranh với nhau ở trong nước mà còn phải “chiến đấu” với doanh nghiệp nước ngoài. Chính sách về thuế, phí có phù hợp thì doanh nghiệp mới có thể cạnh tranh công bằng với doanh nghiệp nước ngoài về đầu vào, về giá thành sản phẩm.
- LS. CHÂU HUY QUANG: Trong nhiều năm trước đây, Việt Nam cũng đã ban hành và áp dụng chính sách ưu đãi thuế dựa trên một số tiêu chí chính như quy mô dự án đầu tư, dự án mới, dự án mở rộng, lĩnh vực ngành nghề hoặc địa bàn hoạt động của doanh nghiệp. Từ đầu năm 2016 đến nay, các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã được áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 20% thay vì 22% như trước. Phải nói rằng mức thuế này khá tương đồng so với mặt bằng chung của các quốc gia trong khu vực: cao hơn Singapore, bằng với Thái Lan và thấp hơn Indonesia, Malaysia. Tuy nhiên, ở ta, cơ sở tính thuế, hạch toán thuế, công nhận các loại chi phí vẫn chưa bám sát thực tế sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó còn là vô số các yêu cầu khắt khe, phức tạp của việc hạch toán sổ sách, hóa đơn chứng từ. Đây là những trở ngại khiến trên thực tế, doanh nghiệp vẫn bị truy thu thuế. Ngoài ra, có những quy định để doanh nghiệp được hưởng các chế độ ưu đãi thuế trong thực tế không khả thi.
Còn với thuế thu nhập cá nhân, mức cao nhất của chúng ta là 35% hiện thuộc hàng cao của khu vực: bằng với Thái Lan nhưng cao hơn Malaysia mười điểm phần trăm; hơn Indonesia năm điểm phần trăm và cao hơn Singapore tới mười lăm điểm phần trăm. Đây cũng là một gánh nặng trực tiếp lên người lao động và gián tiếp lên doanh nghiệp, làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp tại Việt Nam so với doanh nghiệp tại các quốc gia lân cận.
Do vậy, cần giải quyết được bài toán thuế nội địa tốt hơn để xây dựng môi trường kinh doanh theo hướng Việt Nam là nơi chốn để doanh nghiệp có điều kiện kê khai nộp thuế hợp lý, hơn là nơi mà việc lẩn tránh nghĩa vụ thuế được xem là hành xử đương nhiên và khôn ngoan của doanh nghiệp như đã và đang diễn ra.
Người đứng đầu phải làm gương để tạo ra văn hóa công chức trong công sở, và thỉnh thoảng, anh cũng phải đi “vi hành” đột xuất để xem cấp dưới làm việc như thế nào.
Ông Nguyễn Ngọc Tuấn
- Ông NGUYỄN NGỌC TUẤN: Những đề xuất này theo tôi là tốt và đang tập trung nhiều vào nhóm doanh nghiệp nhỏ - đối tượng thiếu vốn, yếu về nguồn lực tài chính và quản lý. Tuy nhiên, tôi kỳ vọng sau nghị quyết, những chính sách này sẽ được biến chuyển thành luật, trở thành chiến lược lâu dài. Và đồng thời với sự hỗ trợ của Chính phủ thì bản thân các doanh nghiệp cũng cần phải nỗ lực để hoàn thiện về quản lý.
TBKTSG: Trên thực tế, trong rất nhiều trường hợp, doanh nghiệp không bị làm khó bởi chính sách mà bởi những cán bộ thuế. Như vậy, bên cạnh việc nới lỏng về chính sách còn cần phải cải cách công tác giám sát, xử lý người thực thi như thế nào?
- LS. CHÂU HUY QUANG: Đúng là có những chính sách tốt nhưng bị công chức, cán bộ thuế diễn dịch sai hay theo một cách cứng nhắc và áp đặt phần khó, phần bất lợi lên doanh nghiệp, khiến hiệu quả đưa chính sách thuế vào đời sống thực tế của doanh nghiệp không cao. Bên cạnh đó là tâm lý “tận thu” tồn tại ở các cấp ngành, ở cán bộ thực thi thuế quan, hải quan. Tư duy “thà thu lầm còn hơn bỏ sót” đã khiến rất nhiều doanh nghiệp bị thu thuế quá mức cần thiết, truy thu oan. Để bảo vệ mình, doanh nghiệp phải trải qua thủ tục tố tụng hành chính, dân sự kéo dài, tiêu hao công sức, chi phí. Chưa kể nhiều đoanh nghiệp chưa quen văn hóa tố tụng dẫn đến sứt mẻ quan hệ với cán bộ thuế địa phương; nhiều doanh nghiệp không muốn thực hiện quyền khiếu nại, khởi kiện vì e ngại, lo sợ bị làm khó về sau.
Dẫn ra như vậy để thấy nếu không quyết tâm thì chúng ta vẫn quay lại câu chuyện cũ. Chính sách ưu đãi thuế mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp ra sao phần lớn phụ thuộc vào việc thực hiện, vận hành trong thực tế của Bộ Tài chính, cơ quan thuế, hải quan ở địa phương. Chính vì vậy, việc nghiên cứu điều tiết, hỗ trợ doanh nghiệp bằng chính sách thuế, tài chính là thiết thực, nhưng để đồng bộ và hiệu quả thì Quốc hội, Chính phủ cần sớm điều chỉnh luật thuế, ban hành nghị định hướng dẫn liên quan, và quan trọng hơn, là có cơ chế giám sát việc thực thi trong thực tế.
Tôi cho rằng chỉ khi dân doanh có cơ hội đóng góp vào ngân sách nhiều hơn và được vinh danh trong cộng đồng vì sứ mệnh này thì lúc đó vai trò quản lý nhà nước, đồng hành, hỗ trợ của Chính phủ mới được xem là hiệu quả.
- Ông HÀ XUÂN ANH: Có một sự thật là hiện nay, các doanh nghiệp muốn yên ổn làm ăn thì mặc nhiên phải “biết điều”, không phải chỉ với cán bộ thuế mà còn với nhiều thành phần quản lý nhà nước khác. Đã một thời gian dài chúng ta phải mặc nhiên chấp nhận sự thật này giống như một sự thỏa thuận ngầm “phân phối lại thu nhập xã hội”. Và cũng đã có những lý do được đưa ra để biện hộ cho tình trạng này là do đồng lương của cán bộ thực thi thấp... Như vậy, trước khi bàn về cơ chế giám sát và xử lý thì phải giải được bài toán về ngân sách. Phải có giải pháp để các khoản thu ngân sách nhà nước không bị cắt xén, lạm dụng, ngân sách được thu đúng và đủ. Đồng thời với đó là việc sử dụng ngân sách hiệu quả, tránh tham nhũng thất thoát. Ngân sách phải chi trả lương xứng đáng cho những công chức làm việc hiệu quả. Cán bộ thực thi không còn nhũng nhiễu là một trong những động lực thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư và phát triển. Đây là cách bền vững để tạo nguồn thu cho ngân sách.
- Ông NGUYỄN NGỌC TUẤN: Theo tôi, người đứng đầu phải làm gương để tạo ra văn hóa công chức trong công sở, và thỉnh thoảng, anh cũng phải đi “vi hành” đột xuất để xem cấp dưới làm việc như thế nào.
Tuy nhiên, chúng ta không thể nói suông việc cán bộ thuế, hải quan phải đồng hành cùng doanh nghiệp mà không có những hỗ trợ bằng tinh thần và vật chất cho họ. Đó là cơ chế lương, thưởng xứng đáng và sự tôn trọng của giới dân doanh. Tôi cho rằng, sự tôn trọng của doanh nghiệp và xã hội với những người làm ở ngành thuế, hải quan có ý nghĩa quan trọng, giúp làm thay đổi nhiều thứ.
Bản thân doanh nghiệp cũng cần phải thay đổi, phải thực sự xứng đáng với hai chữ doanh nhân chứ không thể là những con buôn, làm ăn chộp giật, luôn tìm cách trốn thuế..., như vậy mới không sợ bất kỳ ông cán bộ thuế hay ông cán bộ hải quan nào.
Tâm An thực hiện

Tuesday, 17 May 2016

Dự án đầu tư liên quan vùng ẩn thuế: Có hợp pháp?

Dự án đầu tư liên quan vùng ẩn thuế: Có hợp pháp?

Châu Huy Quang-Minh Hậu-Hoài Nam (*)

Vụ rò rỉ hơn 2.600 GB dữ liệu chứa thông tin của hàng trăm ngàn cá nhân, công ty đầu tư tại nước ngoài (offshore company) trong đó có Việt Nam đã bị tổ chức Liên minh Nhà báo Điều tra Quốc tế (ICIJ) công bố. Nhìn từ góc độ pháp luật Việt Nam, liệu những cá nhân và công ty tại Việt Nam hiện diện ở vùng ẩn thuế (tax haven) trong hồ sơ Panama có được xem là hợp pháp?


Giới đầu tư quốc tế thường dùng thuật ngữ “công ty vỏ bọc” hay “công ty lá chắn” (Shell Company) để chỉ các doanh nghiệp được thành lập tại những vùng ẩn thuế.
Ở Việt Nam giới doanh nghiệp, đội ngũ tư vấn luật, tài chính, đầu tư, cũng như cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư khá quen thuộc với mô hình doanh nghiệp có pháp nhân từ quần đảo Virgin, thuộc Liên hiệp Anh (gọi chung là Doanh nghiệp BVI). Theo báo cáo đầu tư trực tiếp nước ngoài trong năm 2015, số vốn đăng ký mới và tăng thêm từ các nhà đầu tư tại BVI vào Việt Nam là hơn 1 tỉ đô la Mỹ.
Hầu hết các doanh nghiệp thành lập tại BVI được hưởng mức thuế suất thu nhập doanh nghiệp (TNDN) ở mức thấp tối đa là 0% trong khi tại các quốc gia khác hiện nay dao động ở mức từ 9% đến 55%. Không có các sắc thuế phổ biến như thuế thu nhập cá nhân, giá trị gia tăng, môn bài, thuế nhà thầu, chuyển nhượng tài sản, cũng như hơn 10 sắc thuế khác mà Việt Nam cũng như nhiều nước đang duy trì và có xu hướng mở rộng.
Lá chắn trách nhiệm doanh nghiệp
Các công ty “lá chắn” giúp quản trị được rủi ro, giới hạn được trách nhiệm pháp lý cho chủ đầu tư, trong trường hợp các công ty con phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý ở các quốc gia họ đầu tư vào mà không ảnh hưởng đến công ty mẹ chính thống.
Dưới góc độ quản lý nhà nước về đầu tư của Việt Nam, việc cấp phép đầu tư cho doanh nghiêp BVI cũng chưa thấy có thiệt hại nào được thống kê. Tuy nhiên, nếu phát sinh tranh chấp pháp lý liên quan đến một công ty nước ngoài hoạt động ở Việt Nam, mà công ty mẹ là công ty vỏ bọc, thì năng lực liên đới chịu trách nhiệm chỉ có tính tượng trưng so với một nhà đầu tư có hoạt động thực tế.

Việc thực hiện nghĩa vụ thuế từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) có nhà đầu tư là doanh nghiệp từ BVI không khác so với các nhà đầu tư từ các quốc gia khác. Ngược lại, các nhà đầu tư đến từ các quốc gia, lãnh thổ độc lập, nơi có thiết lập quan hệ thương mại đa phương, song phương, quan hệ hỗ trợ kiểm soát thất thu thuế - kiểm soát tiền tệ với Việt Nam, có thể tận dụng hiệp định tránh đánh thuế hai lần mà Việt Nam đã tham gia ký kết với hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Như vậy, về mặt chính sách, các doanh nghiệp BVI, Cayman hay Panama không nhận được bảo hộ hoặc có lợi thế nào từ chính sách đầu tư của Việt Nam, so với các nhà đầu tư nước ngoài từ các quốc gia là thành viên chính thức của tổ chức WTO, hoặc các hiệp định song phương - đa phương với Việt Nam.
Ngược lại, doanh nghiệp BVI có thể đối mặt với những bất lợi nhất định. Chẳng hạn họ không có quyền đương nhiên được tiếp cận thị trường mở cửa theo lộ trình mà Việt Nam cam kết theo WTO, cũng như không được bảo hộ tư cách pháp lý chắc chắn thông qua các cam kết quốc tế của Việt Nam. Đơn cử như năm 2010, một nhà đầu tư quốc tịch Mỹ, ông Michael Mc Kenzie, chủ tập đoàn South Fork đã khởi kiện UBND tỉnh Bình Thuận ra cơ quan trọng tài quốc tế. Nhà đầu tư này yêu cầu một khoản bồi hoàn đầu tư là 3,7 tỉ đô la Mỹ khi một dự án đầu tư của South Fork bị thu hồi. Vụ kiện chỉ dừng lại khi Hội đồng trọng tài quốc tế (UNCITRAL) bác đơn kiện của South Fork vì xác định rằng vụ tranh chấp này không thuộc thẩm quyền của mình. Quyết định này xuất phát từ lý do khoản đầu tư của ông Mc Kenzie không được bảo hộ theo Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (hiệu lực từ tháng 12-2001), vì South Fork là một pháp nhân BVI, chứ không phải pháp nhân Hoa Kỳ khi đầu tư vào Việt Nam. 
Cũng như các nhà đầu tư khác, việc chuyển nguồn vốn đầu tư vào và chuyển lợi nhuận ra khỏi Việt Nam của nhà đầu tư BVI không có khác biệt. Sau khi hoàn tất các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam, hạch toán, báo cáo sổ sách theo quy định, nhà đầu tư BVI được chuyển lợi nhận ra nước ngoài thông qua hệ thống ngân hàng ở Việt Nam.
Lằn ranh mỏng manh giữa “tránh thuế” và “trốn thuế”
Vấn đề gây tranh cãi từ việc giải quyết bài toán thuế của nhà đầu tư nước ngoài rằng khi nào xem là tránh thuế, tức tận dụng chính sách thuế hợp pháp, và khi nào thành “trốn thuế”, tức tìm cách lẩn tránh nghĩa vụ thuế đối với quốc gia sở tại.
Bài toán thuế đơn giản nhất cho mô hình BVI được tóm lược là việc trung chuyển, “tung hứng giữa tay trái tay phải” của nhà đầu tư. Ở Việt Nam chưa có thống kê, nhưng đây là mô hình phổ biến ở quốc gia láng giềng Trung Quốc, mà theo điều tra của ICIJ, nhiều quan chức, lãnh đạo từ nước này có liên hệ đến các công ty trong danh sách Hồ sơ Panama.
Mô típ phổ biến thường thấy như việc một nhà đầu tư X, thành lập công ty A ở Việt Nam, đồng thời, thành lập một công ty B ở  BVI. Trong bất kỳ thương vụ nào, khi nhà đầu tư X thu được 10 đô la Mỹ cho công ty A của mình ở Việt Nam, thì X có thể phân bổ 9 đô la Mỹ cho công ty B ở BVI, thông qua các hình thức hợp đồng thương mại, tư vấn, dịch vụ hoặc môi giới. Như vậy, nhà đầu tư X chỉ có 1 đô là lợi nhuận chịu thuế, và 9 đô thành chi phí được trừ khi quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp. Khoản lợi nhuận 9 đô la Mỹ này sẽ được bảo lưu ngoài lãnh thổ Việt Nam và có thể dùng để chi tiêu, mua sắm, hay thương vụ khác bên ngoài lãnh thổ mà không thuộc tầm kiểm soát của Việt Nam.
Tương tự, nhà đầu tư X có thể dùng 10 đô la Mỹ của công ty B ở BVI để mua lô linh kiện máy móc từ Trung Quốc, rồi bán lại cho công ty A ở Việt Nam với giá 90 đô la Mỹ. Sau đó, công ty A thực bán lô hàng này lại trong nước với giá 100 đô la. Như vậy nhà đầu tư X chỉ phải đóng thuế trên 10 đô lợi nhuận, 80 đô lợi nhuận kia của X được lưu giữ ở tài khoản công ty B ở BVI. Các thông tin này hoản toàn được bảo mật, để tránh mối liên hệ, trực tiếp và tính liên đới, các người điều hành công ty B ở BVI chỉ là đứng tên danh nghĩa (nominee shareholder).
Việt Nam kiểm soát các nhà đầu tư danh nghĩa như thế nào?
Nhiều năm nay, có xu hướng gia tăng nhà đầu tư nước ngoài dùng pháp nhân BVI để đầu tư vào Việt Nam, Ngược lại, giống mô hình của Trung Quốc, một số nhà đầu tư Việt Nam ưa chuộng việc lập ra một doanh nghiệp ở BVI để đầu tư ngược vào Việt Nam dưới hình thức doanh nghiệp FDI. Như phân tích ở trên, có nhiều cách lý giải cho việc chọn mô hình này của doanh nghiệp hay người có thu nhập cao ở Việt Nam. Ngoài các vấn đề liên quan đến chính sách thuế nhà đầu tư còn dùng hình thức này để bảo lưu đồng ngoại tệ mạnh (thông thường đồng đô la Mỹ hoặc euro), phục vụ cho việc tái đầu tư, mua sắm tài sản, chi tiêu ở bên ngoài lãnh thổ mà không bị kiểm soát, hạn chế bởi chính sách quản lý ngoại tệ của Việt Nam.
Ví dụ, hiện nay, theo quy định của NHNN, cá nhân là công dân Việt Nam được quyền mua ngoại tệ tiền mặt tại tổ chức tín dụng được phép để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của bản thân (du lịch, du học, chữa bệnh) ở mức 100 đô la Mỹ/người/ngày, trong khoảng thời gian lưu trú 10 ngày. Mỗi cá nhân khi mang ngoại tệ ra nước ngoài, mức tối đa không phải xin phép và khai báo là 5.000 đô la cho mỗi lần xuất cảnh. Theo thống kê của “Sách trắng 2016” (Whitebook 2016) của Phòng Thương mại Châu Âu tại Việt Nam (Eurocham), riêng năm 2015, tổng số tiền mà 40.000 người Việt đã tiêu dùng cho việc điều trị bệnh ở nước ngoài là 2 tỉ đô la Mỹ. Nếu con số này chính xác, thử hỏi với quy định kiểm soát ngoại hối nghiêm ngặt như trên, làm thế nào các ngân hàng Việt Nam có thể “giải ngân” suôn sẻ 2 tỉ đô la trong một năm như vậy? Không loại trừ trường hợp các cá nhân, doanh nghiệp sử dụng các nguồn thu nhập được lưu giữ trong các tài khoản hải ngoại (offshore account), có sẵn ở BVI để chi tiêu. Chưa kể Việt Nam chưa có thống kê các khoản chi tiêu lớn hơn như mua sắm tài sản, bất động sản ở nước ngoài.
Hoạt động cấp phép đầu tư cho các công ty vỏ bọc nói riêng hay các công ty tại các vùng ẩn thuế nói chung vào Việt Nam xưa nay vẫn khó xác định tính minh bạch, nguồn gốc của dòng tiền. Quy định tại Luật Đầu tư yêu cầu nhà đầu tư chứng minh năng lực tài chính của mình, nhìn chung cũng chỉ tập trung chứng minh nhà đầu tư có tiền thực hay không (thông qua bản tự cam kết năng lực tài chính, sao kê tài khoản số dư ngân hàng và số tiền ký quỹ vào tài khoản ký quỹ), chứ cơ quan cấp phép cũng không chú trọng hoặc không thể có đủ điều kiện để xác minh được nguồn tiền đầu tư có “sạch” hay không.
Về khía cạnh tránh thuế, hay hoạt động chuyển giá như đề cập với ví dụ nhà đầu tư X nói trên, pháp luật Việt Nam (Thông tư 66/2010/TT-BTC, ngày 22/04/2010) đã có quy định các biện pháp nhằm xác định giá thị trường trong giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết. Tuy vậy, các quy định chống “quan hệ liên kết chuyển giá” dù khá công phu cũng dễ bị vô hiệu, ví dụ như nhà đầu tư X thực hiện đầu tư mô hình BVI nói trên. Việc chứng minh có hay không có sự “móc ngoặc” đối với các chủ đầu từ có hiện diện ở BVI là khá khó khăn.
Khâu kiểm soát nguồn tài chính, chống rửa tiền ở các dự án đầu tư nước ngoài, dự án trong nước nhưng đầu tư “dòng tiền lòng vòng” ra nước ngoài, luôn là thử thách đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam.
Do vậy, việc quản lý cấp phép các dự án FDI vào Việt Nam cần thực chất hơn. Kinh nghiệm hoạt động kinh doanh và báo cáo kiểm toán, tài chính của công ty mẹ nên được xem xét cẩn trọng. Ngoài ra, một trong những khâu quan trọng để kiểm soát nghĩa vụ thuế chính là kiểm soát hoạt động chuyển vốn, hoặc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, hoặc lợi nhuận chuyển về Việt Nam.
Cũng có thể tham khảo kinh nghiệm quản lý từ các quốc gia khác đối với vấn đề tránh thuế và trốn thuế để nâng cao chất lượng quản lý tại Việt Nam. Nhật Bản là một ví dụ tốt. Từ thập niên 70 của thế kỷ trước, Nhật Bản đã ban hành một đạo luật các biện pháp kiểm soát hoạt động kinh doanh tại những vùng ẩn thuế (Tax Haven Counter Measure Law) được áp dụng vào mọi công ty con của các nhà đầu tư Nhật được thành lập ở các vùng lãnh thổ có thuế suất thu nhập bằng hoặc thấp hơn 20%. Trên cơ sở này, cơ quan thuế của Nhật sẽ đánh thuế vào thu nhập của công ty mẹ đối với phần thu nhập không phải chịu thuế của các công ty con ở nước ngoài. Nhờ đó, sẽ hạn chế các trường hợp các công ty Nhật Bản thành lập công ty con ở những nơi ẩn thuế rồi phân bổ quyền nắm giữ các tài sản giá trị lớn sau đó nhằm mục đích cho các công ty mẹ thuê lại với chi phí lớn để giảm thiểu nghĩa vụ nộp thuế của các công ty mẹ ở Nhật Bản. Luật này chỉ cho phép ngoại lệ trong trường hợp các công ty con tại những vùng ẩn thuế có thể chứng minh đầy đủ về hoạt động thực tế tại các quốc gia mà công ty này đăng ký thành lập.
Thay lời kết
Gần 30 năm kể từ ngày chính thức mở cửa thị trường, Chính phủ Việt Nam vẫn đang nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, tiếp nhận làn sóng đầu tư nước ngoài FDI, cũng như khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thị trường bên ngoài. Hồ sơ Panama có thể là bài học tốt cho thấy sự thiết yếu trong việc xây dựng môi trường đầu tư thân thiện, nhưng phải minh bạch từ khâu xây dựng chính sách đầu tư, đến thực thi vận dụng chính sách đó vào thực tiễn. Có vậy mới hi vọng có một nền kinh tế, tài chính phát triển bền vững, mà không biến thành một “ốc đảo hay vùng trũng”, tạo dung môi lý tưởng cho các hoạt động phi pháp như tham nhũng, rửa tiền, chuyển giá và trốn thuế.
(*)LS Châu Huy Quang-Trọng tài viên – Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC)
Phạm Thị Minh Hậu-  Hãng luật R&T LCT Lawyers
Nguyễn Hoài Nam-Tổng giám đốc Berjaya Việt Nam

Saturday, 7 May 2016

Tăng chế tài hình sự xử lý quan hệ lao động: Dễ bị lạm dụng


LS. Châu Huy Quang(*) - Quách Đăng Khoa

(TBKTSG) - Bộ luật Hình sự (sửa đổi) số 100/2015/QH13, có hiệu lực từ ngày 1-7-2016 (BLHS 2015), bổ sung nhiều quy định theo hướng bảo vệ quyền lợi người lao động. Theo đó, người sử dụng lao động nếu đơn phương buộc thôi việc, sa thải người lao động trái luật định, có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Dấu hiệu bắt buộc cấu thành tội phạm này là người sử dụng lao động thực hiện hành vi vì tính “vụ lợi” hoặc do “động cơ cá nhân”, cưỡng ép hay đe dọa mà buộc thôi việc hoặc sa thải trái pháp luật đối với người lao động. Cấu thành tội phạm vật chất cho tội danh này là có gây ra hậu quả, cụ thể làm cho người lao động hoặc gia đình họ lâm vào hoàn cảnh khó khăn hoặc dẫn đến đình công.
Hình phạt tội danh này có thể bị phạt tiền (tối đa đến 200 triệu đồng), phạt cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù đến 3 năm. Ngoài ra, người bị buộc tội có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ đến 5 năm (Điều 162, BLHS 2015).
Quy định trên gây quan ngại đối với doanh nghiệp, người sử dụng lao động vì dễ bị lạm dụng trong thực tế. Doanh nghiệp có thể phải đối mặt với rủi ro pháp lý trong quá trình thực hiện chính sách tuyển dụng, tinh giảm nhân sự, trong khi việc thay đổi nhân sự (bao gồm cả đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động có bồi hoàn), là một giải pháp kinh tế được áp dụng linh hoạt theo nhu cầu của doanh nghiệp.
Chế tài hình sự này có lẽ xuất phát từ mục tiêu bảo vệ quyền lợi người lao động, bên yếu thế hơn trong việc xác lập, thực hiện quan hệ lao động. Hình sự hóa một số nhóm hành vi vi phạm pháp luật lao động đã được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội nhiều lần đề đạt, trên cơ sở khuyến cáo của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) bao gồm hơn 20 công ước của ILO đã được Việt Nam phê duyệt từ năm 1993 đến nay.
Tuy nhiên, tính phù hợp của việc “hình sự hóa quan hệ lao động” này trong thực tế của Việt Nam là mối quan ngại của nhiều chủ doanh nghiệp.
Khi quản lý nhân sự không còn là quyền tự quyết của doanh nghiệp
Sa thải hay cho thôi việc người lao động là việc người sử dụng lao động (NSDLĐ) tự ra quyết định đơn phương buộc chấm dứt quan hệ lao đối với người lao động. Theo quy định của Bộ luật Lao động (BLLĐ) năm 1994, biện pháp sa thải người lao động được xếp vào một trong các trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (HĐLĐ) của NSDLĐ, kèm một số điều kiện hạn chế. Đến BLLĐ 2012, hình thức cho thôi việc người lao động đã không còn là “quyền” mà NSDLĐ có thể sử dụng. Theo Điều 126 BLLĐ 2012, kỷ luật sa thải chỉ được áp dụng khi người lao động vi phạm nội quy và kỷ luật lao động ở mức nghiêm trọng, rơi vào một trong bốn trường hợp như quy định tại Điều 126 của Bộ luật này.
Pháp luật lao động hiện hành cũng trao rộng quyền cho người lao động hoặc công đoàn quyền khởi kiện doanh nghiệp, yêu cầu tiếp tục thực hiện HĐLĐ và bồi thường thiệt hại trong trường hợp người lao động bị cho thôi việc trái pháp luật. Tuy nhiên, việc nâng khung hình phạt hình sự truy cứu NSDLĐ theo Điều 162 BLHS là khá hà khắc, dễ bị lạm dụng. Xác định ranh giới giữa trách nhiệm kinh tế, dân sự của doanh nghiệp khi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng với trách nhiệm hình sự là khá mong manh, gây bất ổn trong quan hệ lao động.
Bản chất quan hệ lao động là quan hệ dân sự, việc các bên tự do thỏa thuận quyền, nghĩa vụ, bao gồm các chế tài kinh tế, thương mại cần được pháp luật tôn trọng, khuyến khích trong quan hệ lao động.
Chế tài kinh tế đã đủ hiệu quả
Cần nhìn nhận rằng bản chất quan hệ lao động là một quan hệ dân sự. Quan hệ này xác lập căn bản dựa trên cơ sở tự nguyện, mà hàng hóa đặc thù là sức lao động tự do chuyển nhượng trên thị trường. Do vậy, các bên có thể tự thỏa thuận quyền, nghĩa vụ cũng như áp dụng chế tài dân sự đối với nhau nếu một trong hai bên vi phạm HĐLĐ, bao gồm cơ chế một bên có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ trước thời hạn, nếu chấp nhận bồi hoàn thương mại cho bên còn lại.
Theo tinh thần của Điều 162, một cá nhân có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu như vì động cơ cá nhân mà sa thải người lao động, gây hậu quả vật chất cho người lao động. Điều này kế thừa quy định trong BLHS năm 1999 (Điều 128) nhưng với nội hàm rộng hơn. Cách hiểu quy định “vụ lợi” hoặc “động cơ cá nhân” có thể bất cập, làm sao tách bạch được động cơ cá nhân, tính tư lợi của chủ doanh nghiệp với lợi ích của doanh nghiệp do chính họ sở hữu, quản lý điều hành hàng ngày.
Thử hỏi doanh nghiệp liệu có động cơ nào chính đáng hơn là mục đích sinh lợi, trong đó, việc “dụng nhân” sẽ góp phần trực tiếp cho sự thành bại của doanh nghiệp. Do vậy, sa thải hay thay thế nhân sự xuất phát từ quyền tự quyết, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp. Khi tinh lọc nhân sự mà bản thân chủ doanh nghiệp phải chứng minh mình không có “động cơ vụ lợi” hay luôn phải bóc tách động cơ, lợi ích cá nhân ra khỏi động cơ phát triển, hiệu quả của doanh nghiệp là suy diễn khiên cưỡng.
Thừa chế tài, thiếu ứng dụng
Trong thị trường lao động tự do, những tranh chấp xung đột quyền lợi giữa hai bên là điều khó tránh. Các chế tài dân sự, thương mại trong Bộ luật lao động và Bộ luật Dân sự hiện hành, đang được thực thi, cũng đã đủ để bảo vệ người lao động hiệu quả. Nhóm chế tài “trừng phạt kinh tế” này bao gồm quyền của người lao động được bồi hoàn toàn bộ tiền lương, bảo hiểm, cộng ít nhất 2 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động, nhận lại người lao động hoặc thỏa thuận bồi thường thêm nếu họ không muốn tiếp tục hợp đồng lao động.
Một quốc gia có nền lập pháp phát triển như Singapore, việc sa thải trái pháp luật hoặc vi phạm thoả thuận trong hợp đồng lao động không nằm trong nhóm tội hình sự. Chế tài áp dụng quy định tại Đạo luật Lao động (Employment Act) của Singapore cho phép người lao động khởi kiện lên Bộ Nhân lực (Ministry of Manpower) và tòa án lao động để bảo vệ quyền lợi của mình khi bị sa thải trái pháp luật. Chế tài mà người lao động tìm kiếm là bồi hoàn về kinh tế, khôi phục quyền lợi lao động cho mình chứ không có cơ chế áp dụng chế tài hình sự. Vì vậy, cần xem xét lại việc mở rộng hình sự hoá các quan hệ mang tính dân sự để tránh án oan sai, tạo tâm lý yên tâm cho dân doanh, nhất là khu vực doanh nghiệp tư nhân và nhà đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.
Tương tự, một quốc gia trong khu vực ASEAN có môi trường đầu tư cũng như thị trường lao động cạnh tranh trực tiếp với Việt Nam như Indonesia, Đạo luật Nhân sự 2013 của họ (the Manpower Law), đưa ra 10 trường hợp không được sa thải người lao động và cho phép 10 trường hợp mà doanh nghiệp có quyền sa thải. Indonesia không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với chủ doanh nghiệp có hành vi sa thải hay cho thôi việc trái pháp luật như chế tài hình sự Việt Nam áp dụng.
“Lọt sổ” quy định ảnh hưởng đến môi trường đầu tư
Như đề cập trên, bản chất quan hệ lao động là quan hệ dân sự, tức căn bản được xác lập trên cơ sở tự nguyện, tự do thỏa thuận giữa các chủ thể tham gia. Việc các bên tự do thỏa thuận quyền, nghĩa vụ, bao gồm các chế tài kinh tế, thương mại cần được pháp luật tôn trọng, khuyến khích trong quan hệ lao động.
Ngoài ra, cũng cần phải lưu ý rằng pháp luật lao động Việt Nam thiên về hướng bảo về quyền lợi của người lao động. Tinh thần như vậy cũng đúng đắn. Nhưng bảo vệ bằng mọi giá, bao gồm áp dụng chế tài hình sự nghiêm khắc cho một quan hệ thuần túy dân sự như quan hệ lao động thì việc duy trì hài hòa quan hệ lao động, cân bằng lợi ích giữa các bên, đảm bảo ổn định kinh tế - xã hội là khó khả thi. Nhất là những quy định như vậy làm môi trường lao động, môi trường đầu tư của Việt Nam giảm sức cạnh tranh, làm tăng tính hà khắc không cần thiết.
Quan trọng hơn, đã đến lúc các nhà làm luật của Việt Nam cần cẩn trọng hơn nữa để không “lọt sổ” những quy định hình sự hóa tương tự, ít nhất là trong các luật, đạo luật thuộc thẩm quyền Quốc hội ban hành, nhằm hài hòa quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động.
Sử dụng chế tài kinh tế xử lý các hành vi vi phạm quan hệ hợp đồng lao động, có lẽ là cách tiếp cận phù hợp và có hiệu quả hơn là việc chúng ta thêm thiết chế hình sự hóa quan hệ dân sự này.
(*) Luật sư R&T LCT Lawyers; Trọng tài - Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC)