Saturday, 30 April 2016

Quyền tự do kinh doanh: Tương thích và bất cập

LS. Lê Bích Trâm - LS. Châu Huy Quang (*)
(TBKTSG) - Pháp luật Việt Nam có bước phát triển quan trọng khi ghi nhận quyền tự do kinh doanh trong Hiến pháp 2013, trong bối cảnh Việt Nam tham gia đàm phán, ký kết các hiệp định về thương mại với các nước và khu vực. Sự tương quan giữa khung pháp lý nội địa với các cam kết quốc tế, việc thực thi quyền tự do kinh doanh (TDKD) vẫn là một vấn đề cần hoàn thiện.
Theo Nghị quyết 19/NQ-CP ngày 12-3-2015, Chính phủ chỉ đạo rút ngắn thời gian thực hiện các thủ tục cấp phép kinh doanh cho doanh nghiệp tối đa chỉ sáu ngày. Nhưng theo thống kê gần đây của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hiện tồn tại đến 5.826 điều kiện đầu tư kinh doanh, áp dụng đối với 267 ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. 50% số này được ban hành không đúng thẩm quyền.
Liên quan câu chuyện “kinh doanh trái phép” của ông Nguyễn Văn Tấn đang làm nóng dư luận suốt tuần rồi, ngay cả trong trường hợp các cơ quan tư pháp của huyện Bình Chánh công tâm khởi tố đúng người, đúng tội danh, xét cả yếu tố chủ quan, khách quan, có lẽ lỗi ngay tình không hẳn của riêng ông Tấn, mà còn lỗi của cả một “hệ thống” cấp phép, đăng ký kinh doanh. Theo thông tin báo chí đăng tải, nếu tính từ tháng 8-2015 đến khi bị khởi tố, thì hơn tám tháng sau kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, ông chủ doanh nghiệp nhỏ này vẫn chưa thể tiến hành kinh doanh, vì chưa có giấy phép chính, giấy phép con để khởi nghiệp ở quy mô nhỏ.
Tự do kinh doanh là quyền Hiến định
Quyền TDKD lần đầu tiên được ghi nhận chính thức tại điều 57, Hiến pháp 1992. Kế thừa tinh thần đó, điều 33 Hiến pháp 2013 khẳng định người dân có quyền TDKD trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Cụ thể hóa, Luật Doanh nghiệp 2014 (LDN) và Luật Đầu tư 2014 (LĐT) khẳng định doanh nghiệp có quyền tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà luật không cấm.
Quyền TDKD về cơ bản được cụ thể hóa qua một số quyền như quyền tự do thành lập doanh nghiệp, lựa chọn ngành nghề kinh doanh, quyền tiếp cận thị trường, quyền bình đẳng, tự do cạnh tranh lành mạnh, quyền được đảm bảo sở hữu tài sản của doanh nghiệp.
Kể từ thập niên 90 của thế kỷ trước, Việt Nam đã ký nhiều hiệp định song phương. Tuy nhiên, các hiệp định thường có phạm vi bảo hộ hẹp, chỉ áp dụng cho các hoạt động đầu tư trực tiếp, không bao gồm hoạt động đầu tư gián tiếp. Đến thế hệ các hiệp định FTA, đặc biệt là hiệp định TPP, phạm vi cam kết đa phương rộng hơn với các yêu cầu mở cửa thị trường, bao gồm các quy định đối xử quốc gia, đối xử tối huệ quốc, các chuẩn mực đối xử tối thiểu, các nguyên tắc về thế quyền, cơ chế bồi thường đầu tư, cơ chế giải quyết tranh chấp.
Tinh thần chung của TPP theo nguyên tắc “chọn bỏ”, nhằm mở rộng và thực thi quyền TDKD toàn diện, đầy đủ hơn cho nhà đầu tư giữa các nước thành viên.
Mục tiêu LDN và LĐT là đơn giản hóa điều kiện, thủ tục cấp phép, dỡ bỏ hàng loạt hạn chế, bất cập của quy định cũ, mở rộng các nhóm quyền tự quyết của doanh nghiệp.
LDN hiện nay gia tăng các quyền của doanh nghiệp, bao gồm điều tiết nguồn vốn trong kinh doanh, tăng giảm vốn điều lệ, quyền tự do biểu quyết, một doanh nghiệp có nhiều hơn một chức danh giám đốc, quyền được giữ chức danh giám đốc đồng thời cho nhiều doanh nghiệp, quyền tự khắc và quản lý con dấu. Nhà đầu tư nước ngoài có quyền lựa chọn phương thức bảo hộ, giải quyết các tranh chấp đầu tư ngoài hệ thống cơ quan tư pháp tòa án của một quốc gia, như được chọn cơ chế giải quyết theo trọng tài thương mại quốc tế, cơ chế giải quyết tranh chấp bảo hộ đầu tư (ISCID)...
Bộ luật Hình sự mới (Số 100/2015/QH13) cũng đã bỏ tội danh kinh doanh trái phép. Nhà nước chủ trương tránh hình sự hóa các quan hệ kinh tế - dân sự, tôn trọng và bảo đảm nguyên tắc người dân, doanh nghiệp được kinh doanh những gì mà pháp luật không cấm. Thực tế, khi áp dụng Điều 159, BLHS 1999, rủi ro pháp lý có thể xảy ra cho bất kỳ chủ doanh nghiệp kinh doanh đa năng, đa ngành nào, vì nguy cơ dễ bị “xét nét” và đối mặt tội danh kinh doanh không có đăng ký hoặc kinh doanh không đúng nội dung đã đăng ký.
Quy định đăng ký ngành nghề kinh doanh liệu đã tương thích?
Qua gần một năm thực thi LDN, LĐT 2014 (hiệu lực từ 1-7-2015), danh mục ngành nghề cấm kinh doanh hay kinh doanh có điều kiện vẫn còn khá nhiều điểm chưa tương thích các nguyên tắc cam kết tại các hiệp định như TPP, FTA.
Ngay từ khâu đăng ký kinh doanh, nhà đầu tư có thể vấp phải rào cản thủ tục mã hóa ngành nghề dựa vào Hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam.
Hiện quy định hệ thống mã số ngành căn cứ theo Quyết định 10/2007/QĐ-TTg ngày 23-1-2007 của Thủ tướng Chính phủ và Biểu cam kết thương mại dịch vụ của Việt Nam trong Tổ chức Thương mại Thế giới (“Cam kết WTO”). Nghị định 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp tại điều 7.5 quy định đối với những ngành, nghề kinh doanh không có trong hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam, cơ quan đăng ký kinh doanh xem xét ghi nhận ngành, nghề kinh doanh này vào cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp nếu không thuộc ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh.
Tuy vậy, không ít nhà đầu tư gặp khó khăn nếu chọn kinh doanh những ngành nghề không thuộc danh mục ban hành. Yêu cầu “mã hóa” ngành nghề kinh doanh tương thích với hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam là một cản trở đối với doanh nghiệp khi mở rộng đầu tư theo nhu cầu của mình.
Nếu LDN đã ghi nhận quyền TDKD trong những ngành, nghề mà luật không cấm, việc quy định tương tự như yêu cầu đăng ký ngành nghề tương thích với quy định Hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam (áp dụng từ năm 2007) có lẽ không còn tương thích.
Tại một số nước thành viên khác của TPP như Malaysia, Singapore, thủ tục đăng ký kinh doanh được tối giản, thực hiện qua các kênh trực tuyến. Giấy chứng nhận thành lập do Cơ quan Đăng ký doanh nghiệp của Singapore (Certificate of Incorporation) cấp chỉ nhằm ghi nhận việc thành lập công ty với dung lượng thông tin trong phạm vi một trang giấy A4 mà không phải liệt kê áp mã ngành nghề. Nhiều quốc gia thành viên TPP như Úc hay New Zealand từ lâu cũng đơn giản hóa thủ tục cấp phép. Họ không yêu cầu phải ghi thông tin mục đích và phạm vi hoạt động kinh doanh, bao gồm cả thông tin về người đại diện và vốn đầu tư trên giấy chứng nhận thành lập. Việc này giúp doanh nghiệp có thể tự do rút gọn hoặc mở rộng ngành nghề kinh doanh, không phụ thuộc vào thủ tục sửa đổi giấy chứng nhận thành lập doanh nghiệp như cách áp dụng hiện tại của ta.
Điều kiện đầu tư kinh doanh theo cam kết quốc tế
Ngoài nguyên tắc “chọn bỏ” đã đề cập ở trên, để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, Hiệp định TPP dành riêng một chương định hướng loại bỏ các rào cản kỹ thuật không cần thiết đối với thương mại. Cũng theo yêu cầu về đầu tư, điều 9.9 của TPP quy định, về nguyên tắc, trong trường hợp thành lập, mua lại, mở rộng, điều hành, triển khai, vận hành, kinh doanh hoặc các hình thức chuyển nhượng dự án đầu tư mà nhà đầu tư của bên tham gia hoặc không tham gia hiệp định thực hiện trong lãnh thổ của mình, không thành viên nào có quyền đặt ra hoặc đưa vào áp dụng các yêu cầu, hoặc có quyền ban hành cam kết riêng lẻ.
Pháp luật kinh doanh của Việt Nam chưa sát với lộ trình hội nhập
Đơn cử là ngành nghề đại lý vận tải hàng hóa - logistics, theo cam kết WTO. Từ 1-1-2014, các nhà đầu tư nước ngoài được thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đối với ngành nghề này. Tuy nhiên, Nghị định 140/2007 liên quan lĩnh vực này, được áp dụng gần 10 năm qua, vẫn yêu cầu nhà đầu tư nước ngoài phải thành lập liên doanh với nhà đầu tư Việt Nam. Mặc dù yêu cầu về tỷ lệ sở hữu vốn đối với bên nước ngoài trong liên doanh là không hạn chế, có thể đạt 99,9%. Điều này gây ra việc áp dụng pháp luật khác nhau tại nhiều địa phương, không hiệu quả gì về kinh tế, lại gây trở ngại cho nhà đầu tư.
Đối với các ngành dịch vụ chưa cam kết, về nguyên tắc nhà đầu tư phải xin ý kiến của Chính phủ, cơ quan chuyên ngành, để xem xét quyết định. Dưới góc độ của nhà đầu tư, việc đưa ra một quyết định đầu tư kinh doanh trong trường hợp tương tự là khó khăn, vì việc cấp phép dựa trên cơ chế “xin-cho” theo sự vụ.
Theo quy định tại chương 9 của TPP, thì sau khi hiệp định này có hiệu lực, Việt Nam sẽ mở cửa đối với tất cả ngành nghề, ngoại trừ một số ngành cam kết tại phụ lục 1 và 2 của hiệp định này. Tuy nhiên, LĐT vừa ban hành năm 2014 vẫn kèm theo một phụ lục khá lớn các ngành nghề được phân loại thuộc “ngành nghề kinh doanh có điều kiện”, trong đó bao gồm nhiều ngành mà Việt Nam đã cam kết mở cửa theo TPP.
Theo lộ trình, Hiệp định TPP cần thời gian hai năm để các nước thành viên phê chuẩn hiệu lực. Tuy nhiên việc rà soát, xây dựng hành lang pháp luật kinh doanh có lẽ phải bắt đầu từ bây giờ. Quá trình rà soát, ban hành và công bố danh mục “ngành nghề kinh doanh có điều kiện” được tiến hành khá chậm. Cho đến nay, chưa có văn bản từ nghị định trở xuống quy định thống nhất về danh mục “ngành nghề kinh doanh có điều kiện” cũng như các điều kiện đầu tư kinh doanh, trong khi thời hạn bãi bỏ điều kiện đầu tư kinh doanh tại các thông tư là ngày 1-7-2016 đã đến gần. Do đó, các điều kiện đầu tư kinh doanh trong các văn bản dưới luật vẫn là quan ngại của doanh nghiệp.
Giải phóng quyền tự do kinh doanh đến đâu
Do đặc thù phát triển mỗi nước khác nhau, mỗi quốc gia có những quan tâm khác nhau, trình độ phát triển kinh tế-xã hội khác nhau, nên luật pháp luôn có độ vênh nhất định. Tuy nhiên, một khi chọn hội nhập, hệ thống pháp luật nội địa buộc phải tương thích với các cam kết, điều ước, hiệp định thương mại quốc tế.
Việt Nam tiếp tục phải tháo dỡ các rào cản từ khung pháp lý đến thể chế. Chính phủ, bộ ban ngành cần quyết liệt hơn cho “khai tử” hệ thống giấy phép con, giảm mệnh lệnh hành chính ảnh hưởng đến quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp.
Đảm bảo quyền tự do kinh doanh thực chất là yêu cầu giải phóng năng lực cho doanh nghiệp trong môi trường đầu tư đòi hỏi có hệ thống chính sách dễ tiếp cận, thân thiện, nhất quán và minh bạch. Giải phóng quyền này thành công hay không, phần lớn phụ thuộc vào quyết tâm của Việt Nam thực hiện triệt để đến đâu phương châm không mới “Công dân được làm những gì pháp luật không cấm, viên chức chỉ được làm những gì pháp luật cho phép”. Có như vậy, doanh nghiệp, người dân mới có thể tin rằng những quyết định “hình sự hóa” như vụ việc ông Nguyễn Văn Tấn, sẽ sớm thành “án lệ xấu”, để không bao giờ có cơ hội lặp lại.
(*) Hãng luật Rajah & Tann LCT Lawyers; Trọng tài Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC).

Monday, 4 April 2016

Thực thi quyền SHTT theo TPP: Áp lực lên doanh nghiệp và người tiêu dùng

(TBKTSG) - Từ năm 2005, Việt Nam cơ bản hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về sở hữu trí tuệ (SHTT), góp phần thực thi một số hiệp định thương mại song phương, đa phương mà trong đó chúng ta là thành viên hoặc tham gia ký kết như hiệp định thương mại với Hoa Kỳ (năm 2001); Thỏa ước TRIPS trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO); Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - EU.
LS. Châu Huy Quang (1) - LS. Lê Quang Vy (2)
Để tương thích với Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Việt Nam cần sửa đổi cũng như bổ sung một số điều liên quan đến Luật SHTT hiện hành, cũng như phê chuẩn các điều ước quốc tế liên quan đến quyền SHTT. Vấn đề quan ngại là gánh nặng chi phí kinh doanh sẽ tăng khi doanh nghiệp, người tiêu dùng Việt Nam phải tuân thủ, thực thi quyền SHTT theo chuẩn TPP.
Quyền tác giả, quyền liên quan
Luật SHTT (2005) tuy có quy định tổ chức, cá nhân khi sử dụng bản ghi âm để kinh doanh thương mại phải có nghĩa vụ trả thù lao cho tác giả, nhà sản xuất bản ghi, người biểu diễn nhưng trên thực tế, do Việt Nam chưa có mô hình hiệp hội bảo vệ người biểu diễn, nên chủ thể được bảo hộ quyền này hiện vẫn bị thiệt thòi.
Do đó để đảm bảo sự công bằng giữa tác giả, nhà sản xuất bản ghi và người biểu diễn (NBD), Luật SHTT Việt Nam cần sửa đổi theo hướng “không thứ bậc” (3) như quy định của TPP. Theo đó, ngoài sự cho phép từ phía tác giả, chủ sở hữu tác phẩm, còn cần có sự cho phép của NBD hoặc nhà sản xuất và ngược lại trong trường hợp cần thiết phải có chấp thuận của các bên này.
Quy định về thời hạn bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan cũng cần thay đổi từ quy định hiện nay là suốt cuộc đời tác giả cộng thêm 50 năm tiếp theo kể từ khi tác giả chết lên thành 70 năm.
Sáng chế
Là thành viên của TPP, Việt Nam phải chấp nhận điều khoản cho phép điều chỉnh thời hạn của sáng chế. Theo đó, mọi trì hoãn bất hợp lý trong việc cấp bằng sáng chế do kéo dài thời hạn luật định hơn năm năm kể từ ngày nộp đơn đăng ký tại Việt Nam, hoặc ba năm sau ngày có yêu cầu thẩm định đơn, sẽ bị áp dụng điều chỉnh thời hạn sáng chế để bồi hoàn cho thiệt hại của chủ đơn do chậm trễ. Đồng thời, Việt Nam cũng cam kết sẽ tạo ra cơ chế để các chủ sở hữu sáng chế có thể thực hiện được yêu cầu này.
Cách tiếp cận mới đối với các đối tượng có thể đăng ký sáng chế
Việt Nam đồng ý rằng bằng sáng chế được cấp cho (i) các sáng chế có yêu cầu bảo hộ (ii) hoặc cho một công dụng mới của một sản phẩm đã biết, (iii) hoặc phương thức mới của cách thức sử dụng một sản phẩm đã biết, (iv) hoặc quy trình mới để sử dụng một sản phẩm đã biết. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng quy định mới này có thể dẫn đến tình trạng kéo dài thời gian bảo hộ một sáng chế, kéo dài tình trạng độc quyền đối với bằng sáng chế, và dẫn đến thiệt hại cho người tiêu dùng, đặc biệt, là sáng chế trong lĩnh vực dược phẩm.
Đến nay, hệ thống pháp Luật SHTT của Việt Nam mới chỉ chấp nhận các giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình là đối tượng có thể đăng ký sáng chế, còn công dụng mới của một sản phẩm đã biết, phương thức mới của cách thức sử dụng một sản phẩm đã biết đều là những đối tượng mới mà luật SHTT Việt Nam chưa công nhận.
Tuy nhiên, Hiệp định TPP cũng cho phép quốc gia thành viên được quyền lựa chọn một trong ba cách tiếp cận nêu trên cho các đối tượng có thể đăng ký sáng chế. Nhiều khả năng Việt Nam sẽ duy trì áp dụng đối tượng đăng ký dạng quy trình, vốn đã được ghi nhận trong quy định pháp luật về SHTT hiện nay.
Vấn đề quan ngại là gánh nặng chi phí kinh doanh sẽ tăng khi doanh nghiệp, người tiêu dùng Việt Nam phải tuân thủ, thực thi quyền SHTT theo chuẩn TPP.
Nhãn Hiệu
Điều 72 của Luật SHTT loại trừ âm thanh và mùi hương là đối tượng có thể đăng ký nhãn hiệu. Tuy nhiên, TPP ràng buộc nghĩa vụ của quốc gia thành viên, theo đó, quốc gia thành viên không được từ chối đăng ký nhãn hiệu dựa trên cơ sở dấu hiệu được đăng ký là âm thanh. Ngoài ra, mỗi bên phải tạo điều kiện tối đa để tiếp nhận đăng ký mùi hương làm nhãn hiệu (4).
Việt Nam sẽ phải thực hiện việc sửa đổi các quy định pháp luật theo hướng cho phép việc đăng ký nhãn hiệu cho các dấu hiệu này.
Ở khía cạnh kỹ thuật, Việt Nam cũng cần làm rõ để được công nhận là một nhãn hiệu, liệu một mùi hương có cần phải gắn liền với một sản phẩm, dịch vụ cụ thể mà mùi hương đó sử dụng để tạo ra sự khác biệt hay không.
Đối với việc bảo hộ âm thanh, pháp luật cần làm rõ liệu có thể từ chối việc đăng ký trong trường hợp dấu hiệu âm thanh đơn thuần xuất phát từ chức năng hoặc chỉ có tính chất mô tả, hoặc thậm chí là mô tả sai lệch hay không. Ngoài ra, để tạo thuận lợi cho việc thực hiện đăng ký và thẩm định đăng ký trên thực tế, chúng ta cũng cần đưa ra các hướng dẫn chi tiết để đánh giá khi nào thì một dấu hiệu âm thanh sẽ bị coi là dấu hiệu âm thanh đơn thuần xuất phát từ chức năng hoặc chỉ có tính chất mô tả, hoặc thậm chí là mô tả sai lệch một cách giả tạo.
Sinh phẩm y tế, dược phẩm
Độc quyền về dữ liệu
Theo cơ chế bảo vệ kết quả thử nghiệm bảo mật, và những dữ liệu khác trong Hiệp định TPP, Cục Quản lý dược Việt Nam không thể chỉ dựa trên dữ liệu của nhà sản xuất biệt dược để cấp phép cho đơn đăng ký của các nhà sản xuất thuốc thứ cấp, mà còn phải được sự cho phép của nhà sản xuất biệt dược (nhà sản xuất đầu tiên). Thời hạn quy định theo TPP là tám năm, tính từ ngày cấp phép lưu hành biệt dược (5), trong khi chúng ta hiện chỉ áp dụng năm năm trong khuôn khổ Thỏa ước TRIPS.
Theo báo cáo 2016 của Eurocham Việt Nam, đến nay trên thực tế điều này ít được thực hiện. Hiện chưa có thành viên nào của Hiệp hội các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm (Pharma Group) được chấp thuận để bảo vệ dữ liệu này.
Việc sửa đổi luật liên quan đến thời hạn trên cũng được dự đoán có thể làm trì hoãn việc đưa lưu hành các dòng thuốc generic (thuốc phiên bản, phân biệt với thuốc phát minh) tại Việt Nam.
Liên kết sáng chế áp dụng đối với dược phẩm
Đối với dược phẩm, Việt Nam cũng đồng ý thêm rằng bất kỳ trì hoãn nào trong việc cấp phép lưu hành dược phẩm sẽ tạo cho chủ sở hữu sáng chế liên quan quyền được gia hạn thời hạn sáng chế. Hiện nay, ngoại trừ các quy định tại Chương 18 của TPP, không có quy định liên quan nào tại Luật SHTT hay các quy định trong Luật Dược (2005) cho phép cơ chế bảo đảm thời hạn bảo hộ cho chủ sở hữu sáng chế. Như vậy hồ sơ đăng ký thuốc có thể bị trì hoãn việc xem xét và xử lý trên thực tế.
Do sự tác động của các yêu cầu về bảo hộ sáng chế đối với dược phẩm tại TPP, hạn chế quyền nhập khẩu song song, nhiều loại dược phẩm sẽ tăng giá hoặc duy trì ở mức giá cao do việc hạn chế các nhà sản xuất cạnh tranh, tiếp cận đến dữ liệu sáng chế trong thời hạn dài hơn theo TPP.
Cải thiện thực thi quyền SHTT tại Việt Nam
Việc thực thi quyền SHTT ghi nhận tại Hiệp định TPP bao gồm các chế tài dân sự, hành chính, biện pháp khẩn cấp tạm thời, kiểm soát hải quan và chế tài hình sự. Nhìn chung, các cơ chế thực thi này đều tương đồng với quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam, vốn đã được sửa đổi đồng bộ sau khi Việt Nam gia nhập WTO/WIPO/TRIPS. Tuy nhiên, thực tiễn thực thi pháp luật mới là mối lo ngại lớn hơn đối với các chủ thể được bảo hộ quyền SHTT.
Theo báo cáo của Cục SHTT Việt Nam, năm 2014 có 1.106 trường hợp vi phạm được xử lý theo cơ chế hành chính. Phổ biến nhất là các trường hợp xâm phạm về nhãn hiệu, chiếm 97% các vụ vi phạm. Tiền phạt vi phạm hành chính hiện chiếm đến 98% tổng tiền phạt hành chính của tất cả các vụ vi phạm.
Bộ luật Hình sự mới 2015 (có hiệu lực từ ngày 1-7-2016) cũng đã nâng mức hình phạt tiền và hình phạt tù cho các tội phạm liên quan đến SHTT như “tội xâm phạm quyền tác giả , quyền liên quan”; “tội xâm phạm, quyền sở hữu công nghiệp”. Ngoài ra, chế tài hình sự còn quy trách nhiệm hình sự cho các pháp nhân thương mại khi có hành vi xâm phạm quyền SHTT. Theo đó, sẽ bị phạt tiền nặng hơn, đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc cấm kinh doanh trong một số lĩnh vực nhất định, đặc biệt là cấm huy động vốn từ một đến ba năm.
Hiện nay, cơ chế giải quyết tranh chấp liên quan đến bảo hộ quyền SHTT của nhà đầu tư nước ngoài thường được thực hiện thông qua các tòa án hành chính, dân sự của Việt Nam. Hiện, TPP cho phép các nhà đầu tư sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp bảo hộ đầu tư (ICSID), để khởi kiện chính phủ của một quốc gia nước thành viên khác. Dự báo, một khi quyền SHTT của chủ đầu tư không được bảo hộ thích đáng, nguy cơ các vụ kiện ở tầm quốc gia theo cơ chế ICSID sẽ thường xuyên hơn.
Nhìn chung, có thể nhận thấy rằng các hình phạt hành chính, cơ chế bồi thường dân sự, và các chế tài hình sự đối với xâm phạm về quyền SHTT quy định tại TPP là nghiêm khắc hơn. Theo đó, buộc chính phủ các nước thành viên, các doanh nghiệp phải tuân thủ, thực thi chặt chẽ pháp luật về SHTT.
Trong một sân chơi chung với quy mô rộng lớn như khuôn khổ hiệp định TPP, yêu cầu tuân thủ thực thi quyền SHTT, thay đổi bổ sung, làm tương thích luật của quốc gia với các quy định tại Hiệp định TPP là việc không tránh khỏi. Vấn đề là với một nước có nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, nơi mà con số “nhập siêu” hàng hóa, sản phẩm SHTT luôn lớn hơn “xuất siêu”, thì Chính phủ cần quy hoạch được một lộ trình thực thi bảo hộ quyền SHTT hợp lý. Một mặt các quy định về pháp luật SHTT cần tương thích với TPP, nhưng mặt khác, việc thực thi cần phù hợp thực lực kinh tế-xã hội, năng lực của cơ quan quản lý liên quan. Cần tránh việc thực thi bảo hộ quyền SHTT theo chuẩn TPP gây ra cú “sốc” cho xã hội, bởi một khi chi phí sản xuất, kinh doanh tăng cao thì doanh nghiệp cũng sẽ đẩy gánh nặng này lên vai người tiêu dùng.
--
(1) Luật sư điều hành - hãng luật RajahTann LCT Lawyers - Trọng tài viên Trung tâm Trọng tài.
(2) Luật sư điều hành Công ty VLT Lawyers - Trọng tài viên PIAC.
(3) Điều 18.61 Hiệp định TPP.
(4) Điều 18.18 Hiệp định TPP.

(5) Điều 18.51 Hiệp định TPP.

Sunday, 3 April 2016

Doanh nghiệp thiệt hại tiền tỉ vì tin đồn thất thiệt

Chiêu trò cạnh tranh không lành mạnh bằng việc tung tin đồn thất thiệt ngày càng trở nên phổ biến ở VN, khiến nhiều doanh nghiệp chịu thiệt hại nặng nề cả doanh thu và uy tín.

Năm 2015, thông tin mì Kokomi của Masan có sinh vật lạ như giun, sán lan truyền trên mạng, khiến nhiều người nhẹ dạ tin là sự thật. Câu chuyện xuất phát ở một làng thuộc huyện Tĩnh Gia (Thanh Hóa), khi người dân thấy một số sinh vật lạ còn sống trong gói mì Kokomi. Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm Thanh Hóa đã thu gom số mì chưa sử dụng hết cùng thùng với gói mì được phản ánh, đem pha chế theo cách thông thường nhưng không hề thấy sinh vật lạ như tin đồn. Mẫu mì tôm đưa về Trung tâm kiểm nghiệm dược phẩm - mỹ phẩm Thanh Hóa kiểm nghiệm cũng cho ra kết quả tương tự. Theo Cục An toàn thực phẩm (Bộ Y tế), quá trình sản xuất mì tôm xử lý ở nhiệt độ trên 100 độ C, nên sinh vật không thể sống trong sản phẩm.
Giữa năm 2014, tại các tỉnh miền Trung xuất hiện tin đồn thương hiệu bia Huda bị bán hoàn toàn cho Trung Quốc. Tin đồn này càng nguy hiểm hơn khi đối tượng còn phát tờ rơi với số lượng lớn ở nhiều địa phương nhằm “khẳng định sự việc”. DN phải gửi đơn cầu cứu cơ quan chức năng và những kẻ chủ mưu phát tờ rơi đã bị bắt. Theo công ty sở hữu thương hiệu Huda, những tin đồn thất thiệt kéo dài khoảng 3 năm (2012 - 2014) khiến DN thiệt hại gần 64 tỉ đồng, chưa kể những tác động xấu về mặt thương hiệu.
Bên cạnh lĩnh vực thực phẩm, ở VN còn xuất hiện các tin đồn thất thiệt liên quan đến nhiều khía cạnh của cuộc sống, trong đó đáng chú ý những tin đồn về các công ty trên sàn chứng khoán, hệ thống hạ tầng giao thông… Ví dụ tin đồn cầu Phú Mỹ (TP.HCM) có vết nứt và sắp sập xuất phát từ một bức ảnh trên mạng xã hội hồi tháng 8.2015. Các cơ quan chức năng cùng chủ đầu tư cầu Phú Mỹ phải vào cuộc kiểm tra và khẳng định vết nứt chỉ là khe co giãn giữa nhịp chính và nhịp phụ nằm trong giới hạn cho phép của thiết kế.
Không chỉ trong nước, còn nhiều vụ tin đồn ở nước ngoài liên quan đến sản phẩm của VN. Mới đây, cơ quan quản lý thực phẩm Singapore đã lên tiếng bác bỏ tin đồn lan truyền trên mạng xã hội khi một tài khoản mạng chụp hình và khẳng định khoai lang luộc xuất xứ từ VN chuyển sang màu xanh khi để trong tủ lạnh, vì nhiễm chất độc da cam (ở vùng đất trồng khoai lang). Cục Thú y và nông sản Singapore sau đó phản bác không có chuyện chất độc da cam khiến khoai lang chuyển sang màu xanh mà vì khoai lang luộc tiếp xúc với không khí.
Luật sư Châu Huy Quang, Đoàn luật sư TP.HCM, cho biết nhiều trường hợp DN bị tung tin đồn sai đã khiếu kiện thành công và đây là “tiền lệ” để những doanh nghiệp bị phao tin đồn thất thiệt đòi công bằng.
Chẳng hạn, Công ty TNHH cơ khí ô tô Phạm Gia (Q.Tân Bình) đã khởi kiện thành công một cá nhân khi người này lên một diễn đàn xe hơi để bôi xấu dịch vụ Phạm Gia, dẫn đến doanh thu của công ty bị giảm đến 65%. “Khi gặp trường hợp bị tung tin đồn, theo tôi ngoài các động thái xử lý khủng hoảng về mặt kinh doanh, DN cần nhanh chóng tập hợp chứng cứ, liên hệ cơ quan chức năng có thẩm quyền để xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật nhằm hạn chế đến mức tối đa các thiệt hại có thể xảy ra”, ông Quang phân tích.
“Tệ hại nhất là im lặng”
Cũng theo luật sư Châu Huy Quang, tại các nước phát triển, hành vi tung tin đồn thất thiệt đã được đưa vào pháp luật từ rất sớm. Cụ thể như Singapore, hành vi này được quy định tại đạo luật riêng, Luật số 75 ban hành từ năm 1965, sửa đổi năm 2014. Ở VN tin đồn thất thiệt càng lúc càng phổ biến do nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, chế tài chưa đủ mạnh, chưa tương xứng với mức độ thiệt hại mà DN phải gánh chịu do tin đồn gây ra.
Nếu phạt hành chính hành vi này chỉ dừng ở vài triệu đến hơn 100 triệu đồng như hiện nay, trong khi một tin đồn có thể giết luôn  DN. Thứ hai, về khía cạnh hình sự, đến nay chưa có hướng dẫn thực thi và thực tế được vận dụng không nhiều, dẫn đến các cơ quan tiến hành tố tụng lúng túng khi tiếp nhận, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với loại tội phạm này. Ngoài ra, bộ luật Hình sự hiện hành chưa có quy định về xử lý pháp nhân phạm tội này. Thứ ba, tuy bộ luật Dân sự cho phép khởi kiện đòi bồi thường thực tế, nhưng việc chứng minh các thiệt hại phát sinh từ tin đồn là cực kỳ khó, dẫn đến việc thực thi cơ chế bồi thường thực tế chưa hiệu quả. Thứ tư, ở VN ngày nay số lượng người sử dụng mạng xã hội phát triển mạnh mẽ đã góp phần phát tán tin đồn, thông tin chưa kiểm chứng… ồ ạt mà không ý thức được tác hại khủng khiếp của nó.
Trong khi đó, theo chuyên gia truyền thông Matthew Underwood , Giám đốc điều hành Công ty Matterhorn Communications, khi “dính” tin đồn, điều tệ hại nhất là DN im lặng, không phản ứng gì. “Nếu chọn cách im lặng, những kẻ tung tin đồn sẽ không dừng lại mà thêu dệt thêm nhiều thông tin bất lợi. Vì thế, tốt nhất là khi tin đồn lan truyền, DN cần nhanh chóng cung cấp thông tin sự thật về điều đó, càng rõ ràng càng tốt. Cập nhật sự thật trên các phương tiện truyền thông, bao gồm cả website và kênh mạng xã hội để ngăn chặn tin đồn phát triển”, ông Matthew Underwood nhấn mạnh. 
N.Trần Tâm