Friday, 15 July 2016

Thi hành phán quyết PCA trong vụ tranh chấp giữa Philipines và Trung Quốc

Châu Huy Quang – Cao Đăng Duy

(DĐDN) – Mới đây, ngày 12/7/2016, Tòa Trọng tài Thường trực (PCA  tại The Hague, Hà Lan) được thành lập theo Phụ Lục VII của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (“UNCLOS”) ra phán quyết số PCA 2013-19 cho vụ kiện giữa nguyên đơn, Cộng hòa Phillipines, và bị đơn, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (TQ) liên quan đến vấn đề Biển Đông (“Phán quyết”).

toatrongtai
Tòa trọng tài thường trực ở La Haye lắng nghe luật sư Philippines trình bày.


Phán quyết công phu và dài hơn 500 trang đưa ra quyết định cuối cùng về 4 vấn đề trong tổng số 15 đệ trình mà Phillipines đưa ra như yêu sách ‘Đường chín đoạn’ (Nine-dash line), yêu sách chủ quyền lịch sử của Trung Quốc trên các vùng biển thuộc Biển Đông. Đồng thời, yêu cầu xem xét hành vi của TQ làm trầm trọng tình trạng an ninh, an toàn hàng hải trên Biển Đông.
Thống kê theo Phán quyết, nếu Công ước luật biển này có gần 300 điều khoản chính, TQ bị cáo buộc vi phạm hơn 30 điều khoản, viện dẫn theo UNCLOS này. Phần V của Phán quyết cũng như tại Thông cáo Báo chí, ngày 12/7/2016, phán quyết phân định một số vấn đề chính có thể tóm lược gồm:
Về “Đường chín đoạn” và “Yêu sách Quyền lịch sử của Trung Quốc” trên các vùng biển thuộc Biển Đông: Hội đồng Trọng tài PCA (HĐTT) kết luận rằng sự qua lại và đánh bắt cá của TQ trong vùng Biển Đông là quyền tự do trên biển, mà không phải là một quyền lịch sử. Do đó, TQ  không có căn cứ pháp lý nào đối với yêu sách quyền lịch sử đối với các tài nguyên, theo quy định của UNCLOS, trong vùng biển nằm trong “Đường lưỡi bò”.
Về quy chế của các cấu trúc tại Biển Đông: HĐTT kết luận rằng toàn bộ các cấu trúc nổi tại Trường Sa (bao gồm, ví dụ, Ba Bình, Thị Tứ, Bến Lạc, Trường Sa, Song Tử Đông, Song Tử Tây) đều là “đảo đá” về mặt pháp lý và không tạo ra vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) hoặc thềm lục địa (Continential shelf).
Về các hành vi của TQ tại Biển Đông: HĐTT xác định rằng đội tàu chấp pháp của TQ đã gây ra khả năng đâm va, gây nguy hiểm cho cả tàu và thuỷ thủ Philippines. PCA kết luận rằng TQ đã vi phạm nghĩa vụ của mình theo UNCLOS về Quy định quốc tế để ngăn ngừa va chạm trên biển năm 1972, và Điều 94 của UNCLOS về an toàn hàng hải.
Về hành vi làm trầm trọng thêm tranh chấp giữa các bên: HĐTT kết luận rằng TQ đã vi phạm nghĩa vụ về kiềm chế làm trầm trọng thêm và kéo dài tranh chấp giữa các bên trong khi chờ quá trình xét xử.
Phán quyết yêu cầu TQ triệt để tôn trọng các quyền và sự tự do Philippines, tuân thủ các nghĩa vụ theo UNCLOS, và giải quyết tranh chấp theo phương thức thiện chí, hòa bình.
Cũng theo Thông cáo, Chính phủ Philippines xem phán quyết PCA là thắng lợi toàn diện sau hơn 3 năm theo đuổi vụ kiện. Một câu hỏi đặt ra là hiện quyết định của HĐTT có giá trị ràng buộc chung thẩm không? Các tranh chấp tương tự như vậy trong khu vực có xem phán quyết PCA là “án lệ” tốt không? Liệu nếu TQ bất tuân phán quyết, TQ có bị xem là đã chính thức vi phạm luật pháp quốc tế?


Thực thi Phán quyết của PCA
 Cơ chế luật pháp
Điều 296 UNCLOS quy định rằng “các quyết định do tòa án có thẩm quyền theo mục này đưa ra là có tính chất chung thẩm, và tất cả các bên tranh chấp phải tuân theo”. Điều 11 của Phụ Lục VII của UNCLOS tiếp tục nhấn mạnh rằng phán quyết trọng tài “sẽ được tuân thủ bởi các bên trong tranh chấp”. Nghĩa vụ tuân thủ phán quyết cũng được quy định tại Quy tắc Trọng tài (2012) của PCA (“Quy tắc PCA“).
Tuy nhiên, ngoài các yêu cầu các nước thành viên của UNCLOS tuân thủ một cách thiện chí các nghĩa vụ theo UNCLOS (bao gồm cả nghĩa vụ theo Phán quyết), cả UNCLOS và Quy tắc PCA không đưa ra cơ chế, chế tài cụ thể nào có thể áp đặt và bắt buộc các bên trong tranh chấp thực hiện các nghĩa vụ theo Phán quyết. Bởi các bên tham gia tranh chấp là một quốc gia độc lập, có chủ quyền riêng vì thế không có thể có một tổ chức nào có đủ thẩm quyền để đưa ra một “hình phạt” nếu quốc gia đó không thực hiện phán quyết của trọng tài quốc tế. Mặc dù, trên nguyên tắc, các quốc gia khi gia nhập UNCLOS, phải đồng ý rằng việc giải quyết các tranh chấp lãnh hải, hàng hải theo quy trình bắt buộc của Công ước này.
Việc thực thi Phán quyết sẽ trở ngại nếu TQ  không tự nguyện thực thi, mà một trong những nguyên nhân chính là việc thiếu chế tài hiệu quả để thực hiện phán quyết, đặc biệt là những phán quyết bất lợi cho các cường quốc.


Phán quyết PCA giúp đấu tranh ngoại giao hiệu quả hơn
Sau phán quyết, Phillipines sẽ có tiếng nói mạnh mẽ, chính danh hơn trong việc tìm kiếm sự ủng hộ của công luận quốc tế. Khi khởi động vụ kiện, họ cũng tranh thủ được sự khích lệ của nhiều hiệp hội, khối quốc tế như Liên Hiệp quốc (LHQ), G7, và một số thành viên ASEAN. Ngay cả trường hợp Philipines mong muốn quay lại tìm kiếm một nghị quyết ủng hộ của Hội đồng Bảo an của LHQ như họ đã từng làm cũng khả thi hơn. Khoản 1 Điều 35 của Hiến chương của LHQ, cho phép bất cứ thành viên nào của LHQ đưa tranh chấp ra Hội đồng Bảo an để giải quyết. Tuy nhiên, bất cứ quyết định nào của Hội đồng Bảo an phải dựa trên việc bỏ phiếu biểu quyết của chín thành viên bao gồm phiếu của của các thành viên thường trực, trong đó có TQ. Nước này có thể dùng quyền phủ quyết của mình để phủ quyết bất kỳ quyết định nào của HĐBA gây bất lợi, bao gồm cả về vấn đề thực thi phán quyết của PCA.
Do vậy, khả năng thực thi Phán quyết là vấn đề còn bỏ ngỏ và phụ thuộc vào sức ép của các tổ chức quốc tế đối với thái độ của TQ. Là nước lớn, một khi TQ bất tuân thủ phán quyết họ sẽ chịu điểm trừ trầm trọng về hình ảnh quốc gia trong công luận quốc tế. Đây có thể coi là “chế tài” dành cho quốc gia nào không thực thi phán quyết của tòa án, trọng tài quốc tế, chế định uy tín như PCA.
Cho tới nay, các tòa trọng tài của UNCLOS đã giải quyết nhiều vụ việc, như phán quyết của Tòa án quốc tế về Luật biển (ITLOS) về định mức đánh bắt cá ngừ vây xanh hàng năm giữa Australia, Nhật Bản và New Zealand năm 1999, hay phán quyết của PCA năm 2015 rằng Nga phải bồi thường cho Hà Lan về vụ bắt giữ tàu Arctic Sunrise của tổ chức Hòa bình Xanh. Các phán quyết của tòa quốc tế dựa trên UNCLOS, dù có cơ chế thi hành hay không, hầu hết đều được các bên có liên quan thực thi nghiêm túc.
Mặt khác, việc TQ thoái thác thẩm quyền tài phán của PCA trên cơ sở UNCLOS, cũng cho thấy các yêu sách của quốc gia nay đã không còn chính danh, sai lệch vị thế pháp lý ngay từ đầu. Thực tế, dù tuyên bố “không quan tâm” đến vụ kiện mà TQ cáo buộc là “vô giá trị” ngay từ đầu, thực tế, TQ vẫn ráo riết các chiến dịch ngoại giao và pháp lý khổng lồ để tìm một lý giải nhằm hợp thức hóa các tuyên bố, và hành động gây hấn trên Biển Đông của mình. Xuyên suốt quá trình tố tụng trọng tài, TQ tư các bị đơn cũng luôn được cập nhật đầy đủ tiến trình, kết quả vụ kiện.


“Án lệ” áp dụng cho Việt Nam
Kết quả phán quyết của PCA, do Philipines tiên phong, khởi xướng giúp khích lệ các quốc gia láng giềng có tình trạng biển, đảo và ngư dân bị TQ tiệm chiếm, ngăn cản trái phép, dùng làm phương thức đấu tranh pháp lý dựa trên luật pháp quốc tế, bao gồm cho cả việc ngăn chặn việc xâm chiếm biển đảo, tuyên bố chủ quyền lịch sử, và cả chuyện đâm vay, ngăn cản, xâm hại tài sản, tính mạng ngư dân Việt Nam.
Mục 65 trang 22 của Phán quyết, ghi nhận vai trò của Việt Nam tham gia vụ tố tụng với tư cách là nước quan sát viên cũng như Malaysia, Thái Lan, Nhật Bản, Indonesia, Singapore, Australia. Tại Mục 36 trang 13 của Phán quyết, thể hiện quan điểm của Việt Nam tại công hàm của Bộ ngoại giao gửi tới PCA, ngày 5/12/2014 trong đó Việt Nam tuyên bố công nhận thẩm quyền của hội đồng trọng tài PCA, hoàn toàn phản đối bất kỳ yêu sách nào của TQ về “Đường lưỡi bò”, tuyên bố bảo lưu các quyền và lợi ích của mình cũng như ủng hộ giải quyết các vấn đề dựa trên nguyên tắc luật pháp quốc tế.
Tương tự Philipine, đối với Việt Nam, phán quyết của PCA và sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế là giải pháp hiệu quả giúp đối đáp trước những hành vi gây hấn,  xâm phạm của TQ.
Trên hết, thắng lợi của một phán quyết như PCA không nhằm phân giả các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải giữa các quốc gia lân cận, mà có ý nghĩa tuyên buộc, cảnh tỉnh các thành viên trong Công ước LHQ về Luật biển 1982 tuân thủ nghiêm ngặt Công ước này vì hòa bình, an ninh thịnh vượng chung trong khu vực. Theo đó, hội đồng trọng tài do chánh án của Tòa Thường trực Quốc tế, ông Thomas Mensah dẫn dắt hội đồng gồm 5 thẩm phán danh tiếng, đã nhắc nhở TQ thành văn rằng “chiếu theo nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, các hành xử xấu sẽ không được chấp nhận”.
Thắng lợi của người Phililine còn lại cổ xúy cho nguyên tắc thượng tôn pháp luật. Khuyến khích các tranh tranh về lãnh hải, hàng hải trên Biển Đông thông qua biện pháp hòa bình và trọng tài như cách thức xử lý vụ việc này.
Việc TQ chủ động thúc ép, áp đặt việc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông với từng bên liên quan, tránh “quốc tế hóa”, các phán quyết như vụ PCA trên tạo lợi thế cho Philipines, ngay cả người phi chấp nhận đàm phán song phương trong tương lai.

Sunday, 5 June 2016

Hội Nhập Cộng Đồng Kinh Tế Asean: Tác Động Đối Với Thị Trường Lao Động Việt Nam

HỘI NHẬP CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN: TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM

Luật sư Nguyễn Hữu Phước/ Luật sư Châu Huy Quang

Theo thống kê của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, tính đến cuối năm 2014, Việt Nam có hơn 75.000 lao động nước ngoài đang làm việc, với khoảng 90% trong số đó thuộc diện phải cấp phép. Nhu cầu sử dụng nhân sự người nước ngoài tại các doanh nghiệpViệt Nam ở mức cao và có xu hướng gia tăng.

Trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực cũng như thế giới thông qua ký kết Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và chính thức gia nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (“AEC”) từ cuối năm 2015, Việt Nam đặc biệt kỳ vọng sẽ tận dụng được các cơ hội từ việc hội nhập, nhất là từ cộng đồng AEC để chuyển dịch tích cực cơ cấu sử dụng lao động trong nước.


AEC là khu vực kinh tế chung gồm 10 quốc gia thành viên ASEAN. Một trong những mục tiêu chính yếu của AEC là hình thành một thị trường chung cho các nước thành viên, chú trọng vào việc thực thi quyền tự do di chuyển hàng hóa, cung cấp dịch vụ, tự do di chuyển vốn và đặc biệt là tự do di chuyển lao động có kĩ năng giữa các nước thành viên.

Vấn đề tự do di chuyển lao động gây không ít quan ngại cho các nước đang phát triển như Việt Nam.

Những năm trở lại đây, phần lớn lao động di chuyển giữa các nước ASEAN đã dần hình thành một tiền lệ, rằng lao động phổ thông có xu hướng di chuyển từ các nước đang phát triển đến các nước phát triển. Trong bối cảnh đó, AEC đã đưa ra yêu cầu đòi hỏi các nước thành viên phải thúc đẩy dịch chuyển lao động có tay nghề trong nhiều lĩnh vực để các quốc gia thành viên có cơ hội tiếp cận nguồn lực lao động với trình độ chuyên môn cao.

Theo đó, các thành viên trong AEC đã ký kết 08 Thỏa thuận Thừa nhận Lẫn nhau (Mutual Recognition Agreement – MRAs) đối với các ngành nghề như dịch vụ kiểm toán, kiến trúc, kỹ thuật, đo đạc, y khoa, điều dưỡng, nha khoa và du lịch. Các MRAs này cho phép chứng chỉ của lao động có tay nghề được cấp bởi cơ quan quản lý lao động tại một quốc gia sẽ được thừa nhận bởi các nước thành viên khác trong khu vực.

Cam kết của Việt Nam về lao động khi gia nhập AEC

Bên cạnh các MRAs nêu trên, một cam kết quan trọng khác mà Việt Nam đã ký kết liên quan đến lĩnh vực lao động khi gia nhập AEC là Hiệp Định ASEAN Về Dịch chuyển Thể nhân (Agreement On Movement of Natural Person – MNP) vào tháng 11/2012. MNP tạo điều kiện thuận lợi cho các thể nhân của quốc gia thành viên có thể tham gia vào các hoạt động thương mại và đầu tư của các quốc gia thành viên. Ví dụ như tại Điều 13 MNP quy định rằng, khi xem xét việc một thể nhân của một nước thành viên (thành viên A) di chuyển vào một nước thành viên (thành viên B) hoặc một nước không phải thành viên trong AEC (thành viên C), nếu thành viên A đối xử có lợi cho thể nhân của thành viên B hoặc thành viên C thì thành viên A cũng phải đối xử tương tự với thể nhân của các quốc gia thành viên còn lại bằng việc công nhận cho các thể nhân này di chuyển vào quốc gia A, khi họ chứng minh được rằng trình độ học vấn, kinh nghiệm, giấy phép, chứng chỉ của họ đáp ứng được các yêu cầu của thành viên A.

Về phía Việt Nam, các cam kết về lao động của Việt Nam trong MNP cũng ghi nhận một số nội dung mới nổi bật.  Đối với những người lao động nước ngoài (“NLĐNN”) di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp từ nước thành viên sang Việt Nam, những lao động này được phép nhập cảnh và lưu trú trong thời hạn 3 năm đầu tiên và có thể được gia hạn theo thời gian hiện diện thương mại của họ tại Việt Nam. Cùng với đó, mỗi doanh nghiệp nước ngoài được phép có ít nhất 03 nhà quản lý, giám đốc điều hành và chuyên gia không phải công dân Việt Nam. Đối với các nhân sự khác (nhà điều hành quản lý, chuyên gia), họ sẽ được phép lưu trú theo thời hạn của hợp đồng lao động hoặc được lưu trú theo thời hạn 03 năm đầu tiên, sau đó được gia hạn. Biểu cam kết cụ thể của Việt Nam được kèm theo Nghị Quyết Số 76/NQ-CP ngày 15/11/2012 của Chính Phủ về phê duyệt nội dung và ký Hiệp Định ASEAN Về Di Chuyển Thể Nhân.

AEC tác động đến thị trường lao động trong nước

Bên cạnh các thuận lợi mà AEC mang lại, Việt Nam đối diện với các thách thức lớn khi tham gia vào sân chơi chung này. Một chính sách hội nhập tốt có thể sẽ giúp tăng năng suất nguồn lao động trong nước thông qua việc dịch chuyển lực lượng lao động có tay nghề. Do vậy, thị trường sức lao động Việt Nam có nhiều lựa chọn hơn, đồng thời, cạnh tranh quyết liệt hơn. Một khi thông qua các MRAs và MNP, các lao động có tay nghề cao từ các nước thành viên khác vào Việt Nam có thể gây thiếu hụt việc làm cho chính lực lượng lao động Việt Nam.

Theo thống kê vào cuối năm 2015, Việt Nam hiện đang là nước có lực lượng lao động phát triển với 70% dân số đang ở độ tuổi lao động (tức hơn 60 triệu người). Tuy nhiên, tỉ lệ thất nghiệp trong các năm vừa qua cũng đang tăng đều (2,31% trong năm 2015 so với 2,18% năm 2014).

Như đã đề cập, lượng đầu tư FDI tăng cũng đồng nghĩa với việc gia tăng số lượng lao động nước ngoài tham gia quản lý, điều hành các doanh nghiệp thành lập tại Việt Nam. Tính đến năm 2015, tổng vốn đầu tư của 8 nước ASEAN vào Việt Nam đạt 53 tỷ USD với 2.507 dự án, chiếm 14% tổng số dự án và 20% tổng vốn đầu tư của cả nước. Con số này cũng thể hiện phần nào sức ép mà lao động Việt Nam sẽ phải cạnh tranh trong các năm sắp tới.

Ngoài ra, vấn đề quản lý lao động nước ngoài cũng đang là bài toán nan giải. Hiện nay, một số địa phương tại Việt Nam đang lâm vào tình trạng không kiểm soát được số lượng lao động nước ngoài không phép tại Việt Nam. Cụ thể, tại Ninh Thuận đang có gần 1500 người Trung Quốc theo diện du lịch tự do, trong đó số lượng người lao động “chui” là không nắm được.

Việc lao động nước ngoài làm việc không phép dẫn tới nhiều phức tạp trong hoạt động trị an của từng địa phương. Hiện nay, tuy Nghị định 95/2013/NĐ-CP của Chính Phủ cho phép trục xuất NLĐNN không phép và xử phạt người sử dụng lao động đến 75.000.000 VNĐ khi sử dụng 21 NLĐNN không phép trở lên, nhưng theo đánh giá, việc thực hiện quy định này còn chưa khả thi do mức phạt còn khá thấp cũng như bộ máy thanh tra lao động còn mỏng, chưa thực sự mạnh để nắm bắt toàn bộ lao động mình đang quản lý tại địa phương.

Mặt khác, cũng quan ngại là VN dường như chưa có đối sách hiệu quả nào cho xu hướng “chảy máu chất xám” khi lượng lớn lao người lao động có tay nghề của rời đất nước để đi tìm những công việc có thu nhập cao hơn, môi trường làm việc tốt hơn ở  các nước thành viên khác.

Cùng với TPP, chế định tự do dịch chuyển nguồn lao động trong AEC cũng sẽ thúc đẩy quá trình thay đổi quy định của pháp luật lao động Việt Nam để đảm bảo tương thích với cam kết quốc tế về lao động. Trong đó, việc điều chỉnh các phúc lợi cho người lao động theo hướng quy định chặt chẽ hơn, thực thi nghiêm túc hơn sẽ tăng gánh nặng về chi phí bảo hiểm xã hội, y tế, các phúc lợi trợ cấp, làm tăng đột biến chi phí hoạt động của doanh nghiệp. Từ ngày 01/01/2016 khi Luật BHXH 2014 có hiệu lực, sẽ thay đổi cách tính tiền lương theo hướng là tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH sẽ bao gồm mức lương và phụ cấp lương. Thực thi quy định này, doanh nghiệp phải đóng BHXH cho người lao động là 18% quỹ tiền lương được tính trên tổng mức lương và phụ cấp lương mà người lao động hưởng, so với việc đóng theo quỹ tiền lương đóng BHXH riêng như các năm trước đây.

Việt Nam cần chuẩn bị gì khi tham gia AEC

Để tránh bỡ ngỡ, và hội nhập toàn diện và sâu sắc khi trở thành thành viên của AEC, Việt Nam cần chú trọng đến chính sách nâng cao nội lực cho lao động Việt Nam. Đầu tư ngân sách vào đào tạo tay nghề, và chống “chảy máu chất xám” là nhiệm vụ thực hiện liên tục lâu dài. Thêm nữa, Việt Nam có đủ hàng rào kỹ thuật hữu hiệu để sàng lọc lực lượng lao động trình độ tay nghề thấp, mà trong thực trạng trước mắt là lực lượng công nhân đến từ quốc gia ngoài AEC như Trung Quốc. Đồng thời, thắt chặt việc kiểm tra giám sát NLĐNN không phép để có thể hạn chế tình trạng cạnh tranh “không lành mạnh” với lực lượng lao động trong nước.

Ngoài ra, việc điều chỉnh chính sách thuế thu nhập cá nhân hợp lý hơn theo đúng lộ trình đến năm 2020 tại Quyết định số 732/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ cũng là cần thiết để cải thiện sức cạnh tranh của thị trường lao động Việt Nam so với các nước trong khu vực.

Việc gia nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN năm 2015 trong một chừng mực nào đó sẽ hỗ trợ thúc đẩy tăng tưởng GPD của Việt Nam và tăng trưởng việc làm. Nhưng điều này chỉ có thể đạt được hiệu quả nếu có được sự phối hợp nhịp nhàng giữa à Chính phủ, lực lượng doanh nghiệp và lực lượng lao động Việt Nam. Ngoài ra, nếu thiếu hoạch định một lộ trình chuẩn bị, khi AEC được thực thi toàn diện, Việt Nam dễ rơi vào tình huống như khi gia nhập WTO, đó là khi cam kết mở cửa thị trường dần dỡ bỏ, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của người lao động chưa được cải thiện đáng kế, nguy cơ “mất bóng” ngay trên phần sân nhà là đáng quan ngại.



Luật sư thành viên P&P ;
Luật sư thành viên R&T LCT Lawyers; Trọng tài viên VIAC;

Tuesday, 24 May 2016

Nới lỏng chính sách thuế cần đồng bộ với giám sát thực thi

(TBKTSG) - Tại phiên họp thường kỳ Chính phủ tháng 4, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã khẳng định sẽ nới lỏng các chính sách thuế, tài chính như một cách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp. Doanh nghiệp nhìn nhận và kỳ vọng như thế nào về cam kết này. Và liệu chỉ nới lỏng chính sách thôi thì đã đủ hay chưa? TBKTSG đã có cuộc trao đổi với ông Châu Huy Quang, Luật sư Điều hành Rajah & Tann LCT Lawyers, Trọng tài viên - Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC); ông Hà Xuân Anh, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần May Sơn Việt; ông Nguyễn Ngọc Tuấn, Giám đốc Công ty Beboss Training.

Việc giảm thuế, phí là biện pháp tháo gỡ cấp bách, giúp doanh nghiệp có nguồn tái sinh, tăng “sức đề kháng”.
LS. Châu Huy Quang
- LS. CHÂU HUY QUANG: Theo tôi, đây là tín hiệu đáng mừng. Cam kết này cho thấy Chính phủ đang nỗ lực tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, đặc biệt là khối doanh nghiệp tư nhân, nâng cao sức cạnh tranh và quyền tự chủ của họ.
Thống kê của Cục Quản lý đăng ký kinh doanh (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho thấy trong quí 1-2016 đã có khoảng 23.000 doanh nghiệp ngừng hoạt động hoặc giải thể, phần lớn là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Con số này đã liên tục gia tăng từ năm 2013 đến nay. Khó khăn từ thuế, phí, gánh nặng tài chính, môi trường đầu tư không minh bạch, không thân thiện, khó tiếp cận vốn... là một số yếu tố chính góp phần vào bức tranh chung này. Do vậy, việc giảm thuế, phí là biện pháp tháo gỡ cấp bách, giúp doanh nghiệp có nguồn tái sinh, tăng “sức đề kháng”.
Điều này càng có ý nghĩa trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn diện hiện nay. Doanh nghiệp trong nước đang phải chịu áp lực cạnh tranh cao từ khu vực vốn đầu tư nước ngoài, hàng hóa sản xuất ra phải chịu áp lực “nhường sân nhà” cho hàng nhập khẩu trong quá trình Việt Nam thực hiện các hiệp định thương mại tự do (FTAs), tham gia Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) và sắp tới là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Doanh nghiệp có thể bị loại ngay khỏi cuộc chơi này nếu thiếu năng lực cạnh tranh mà trong đó, nguồn vốn, tiềm lực tài chính là những yếu tố chính yếu.
Cũng cần nói thêm là Việt Nam đã duy trì chính sách thuế áp lên doanh nghiệp cao hơn nhiều nước ở khu vực trong nhiều năm trước. Do vậy, các chính sách hỗ trợ thuế khóa; miễn, giảm, giãn thu thuế; điều tiết thị trường vốn, giảm lãi suất vốn vay đồng thời với các biện pháp chống tệ tham ô, hối lộ làm doanh nghiệp phát sinh các chi phí phi chính thức đang được cam kết thúc đẩy. Tôi tin nếu làm được một cách đồng bộ, nhất quán thì sẽ có tác động trực tiếp, tích cực cho sự phát triển của doanh nghiệp.
- Ông HÀ XUÂN ANH: Hiện tại, doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt với những áp lực cạnh tranh gay gắt ngay tại sân nhà khi mà các hiệp định thương mại từng bước có hiệu lực. Tôi hy vọng việc nới lỏng chính sách thuế và tài chính sẽ tăng thêm sức cạnh tranh cho doanh nghiệp, là đòn bẩy để doanh nghiệp đẩy mạnh đầu tư và tái đầu tư, sẵn sàng cho cuộc chiến với hàng hóa nhập khẩu.
Trước đây, doanh nghiệp chúng tôi cũng từng kỳ vọng sẽ có nhiều thay đổi sau những cam kết của lãnh đạo Chính phủ nhưng không phải lúc nào mọi thứ cũng như mong muốn. Nhưng tôi cho rằng lần này sẽ có những thay đổi lớn.
- Ông NGUYỄN NGỌC TUẤN: Trước mắt, cam kết này của người đứng đầu Chính phủ có ý nghĩa về mặt tinh thần. Nó đem đến sự hứng khởi cho khối doanh nghiệp tư nhân - thành tố được xác định là động lực phát triển của nền kinh tế, và nó tiếp sức cho những người đang có ý định khởi nghiệp.
Tôi tin rằng với cam kết lần này của Thủ tướng, các bộ, ngành sẽ phải có những thay đổi theo tinh thần đồng hành, phục vụ doanh nghiệp chứ không phải là kiểm tra, thanh tra như lâu nay.
TBKTSG: Bộ Tài chính đang xây dựng dự thảo nghị quyết về phát triển doanh nghiệp với phương án miễn thuế thu nhập trong năm đầu tiên đối với doanh nghiệp mới thành lập; mở rộng chi phí giảm trừ cho các doanh nghiệp tư vấn, hỗ trợ thủ tục, doanh nghiệp xã hội; giảm thuế suất thêm hai đến ba điểm phần trăm cho doanh nghiệp nhỏ... Theo các ông, như vậy đã “điểm” đúng những nhu cầu hiện tại của doanh nghiệp chưa?
Chính sách về thuế, phí có phù hợp thì doanh nghiệp mới có thể cạnh tranh công bằng với doanh nghiệp nước ngoài về đầu vào, về giá thành sản phẩm.
Ông Hà Xuân Anh
- Ông HÀ XUÂN ANH: Đây chỉ là một số trong rất nhiều điều kiện cần để doanh nghiệp phát triển. Doanh nghiệp còn cần nhiều điều kiện thuận lợi khác như môi trường kinh doanh bình đẳng và minh bạch, cơ sở hạ tầng giao thông, hệ thống luật pháp, thủ tục hành chính...
Bên cạnh đó, chính sách gì, mức thuế ra sao... cũng phải được xem xét trong tương quan với các nước xung quanh, bởi đây là thời đại hội nhập, các doanh nghiệp không chỉ lo cạnh tranh với nhau ở trong nước mà còn phải “chiến đấu” với doanh nghiệp nước ngoài. Chính sách về thuế, phí có phù hợp thì doanh nghiệp mới có thể cạnh tranh công bằng với doanh nghiệp nước ngoài về đầu vào, về giá thành sản phẩm.
- LS. CHÂU HUY QUANG: Trong nhiều năm trước đây, Việt Nam cũng đã ban hành và áp dụng chính sách ưu đãi thuế dựa trên một số tiêu chí chính như quy mô dự án đầu tư, dự án mới, dự án mở rộng, lĩnh vực ngành nghề hoặc địa bàn hoạt động của doanh nghiệp. Từ đầu năm 2016 đến nay, các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã được áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 20% thay vì 22% như trước. Phải nói rằng mức thuế này khá tương đồng so với mặt bằng chung của các quốc gia trong khu vực: cao hơn Singapore, bằng với Thái Lan và thấp hơn Indonesia, Malaysia. Tuy nhiên, ở ta, cơ sở tính thuế, hạch toán thuế, công nhận các loại chi phí vẫn chưa bám sát thực tế sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó còn là vô số các yêu cầu khắt khe, phức tạp của việc hạch toán sổ sách, hóa đơn chứng từ. Đây là những trở ngại khiến trên thực tế, doanh nghiệp vẫn bị truy thu thuế. Ngoài ra, có những quy định để doanh nghiệp được hưởng các chế độ ưu đãi thuế trong thực tế không khả thi.
Còn với thuế thu nhập cá nhân, mức cao nhất của chúng ta là 35% hiện thuộc hàng cao của khu vực: bằng với Thái Lan nhưng cao hơn Malaysia mười điểm phần trăm; hơn Indonesia năm điểm phần trăm và cao hơn Singapore tới mười lăm điểm phần trăm. Đây cũng là một gánh nặng trực tiếp lên người lao động và gián tiếp lên doanh nghiệp, làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp tại Việt Nam so với doanh nghiệp tại các quốc gia lân cận.
Do vậy, cần giải quyết được bài toán thuế nội địa tốt hơn để xây dựng môi trường kinh doanh theo hướng Việt Nam là nơi chốn để doanh nghiệp có điều kiện kê khai nộp thuế hợp lý, hơn là nơi mà việc lẩn tránh nghĩa vụ thuế được xem là hành xử đương nhiên và khôn ngoan của doanh nghiệp như đã và đang diễn ra.
Người đứng đầu phải làm gương để tạo ra văn hóa công chức trong công sở, và thỉnh thoảng, anh cũng phải đi “vi hành” đột xuất để xem cấp dưới làm việc như thế nào.
Ông Nguyễn Ngọc Tuấn
- Ông NGUYỄN NGỌC TUẤN: Những đề xuất này theo tôi là tốt và đang tập trung nhiều vào nhóm doanh nghiệp nhỏ - đối tượng thiếu vốn, yếu về nguồn lực tài chính và quản lý. Tuy nhiên, tôi kỳ vọng sau nghị quyết, những chính sách này sẽ được biến chuyển thành luật, trở thành chiến lược lâu dài. Và đồng thời với sự hỗ trợ của Chính phủ thì bản thân các doanh nghiệp cũng cần phải nỗ lực để hoàn thiện về quản lý.
TBKTSG: Trên thực tế, trong rất nhiều trường hợp, doanh nghiệp không bị làm khó bởi chính sách mà bởi những cán bộ thuế. Như vậy, bên cạnh việc nới lỏng về chính sách còn cần phải cải cách công tác giám sát, xử lý người thực thi như thế nào?
- LS. CHÂU HUY QUANG: Đúng là có những chính sách tốt nhưng bị công chức, cán bộ thuế diễn dịch sai hay theo một cách cứng nhắc và áp đặt phần khó, phần bất lợi lên doanh nghiệp, khiến hiệu quả đưa chính sách thuế vào đời sống thực tế của doanh nghiệp không cao. Bên cạnh đó là tâm lý “tận thu” tồn tại ở các cấp ngành, ở cán bộ thực thi thuế quan, hải quan. Tư duy “thà thu lầm còn hơn bỏ sót” đã khiến rất nhiều doanh nghiệp bị thu thuế quá mức cần thiết, truy thu oan. Để bảo vệ mình, doanh nghiệp phải trải qua thủ tục tố tụng hành chính, dân sự kéo dài, tiêu hao công sức, chi phí. Chưa kể nhiều đoanh nghiệp chưa quen văn hóa tố tụng dẫn đến sứt mẻ quan hệ với cán bộ thuế địa phương; nhiều doanh nghiệp không muốn thực hiện quyền khiếu nại, khởi kiện vì e ngại, lo sợ bị làm khó về sau.
Dẫn ra như vậy để thấy nếu không quyết tâm thì chúng ta vẫn quay lại câu chuyện cũ. Chính sách ưu đãi thuế mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp ra sao phần lớn phụ thuộc vào việc thực hiện, vận hành trong thực tế của Bộ Tài chính, cơ quan thuế, hải quan ở địa phương. Chính vì vậy, việc nghiên cứu điều tiết, hỗ trợ doanh nghiệp bằng chính sách thuế, tài chính là thiết thực, nhưng để đồng bộ và hiệu quả thì Quốc hội, Chính phủ cần sớm điều chỉnh luật thuế, ban hành nghị định hướng dẫn liên quan, và quan trọng hơn, là có cơ chế giám sát việc thực thi trong thực tế.
Tôi cho rằng chỉ khi dân doanh có cơ hội đóng góp vào ngân sách nhiều hơn và được vinh danh trong cộng đồng vì sứ mệnh này thì lúc đó vai trò quản lý nhà nước, đồng hành, hỗ trợ của Chính phủ mới được xem là hiệu quả.
- Ông HÀ XUÂN ANH: Có một sự thật là hiện nay, các doanh nghiệp muốn yên ổn làm ăn thì mặc nhiên phải “biết điều”, không phải chỉ với cán bộ thuế mà còn với nhiều thành phần quản lý nhà nước khác. Đã một thời gian dài chúng ta phải mặc nhiên chấp nhận sự thật này giống như một sự thỏa thuận ngầm “phân phối lại thu nhập xã hội”. Và cũng đã có những lý do được đưa ra để biện hộ cho tình trạng này là do đồng lương của cán bộ thực thi thấp... Như vậy, trước khi bàn về cơ chế giám sát và xử lý thì phải giải được bài toán về ngân sách. Phải có giải pháp để các khoản thu ngân sách nhà nước không bị cắt xén, lạm dụng, ngân sách được thu đúng và đủ. Đồng thời với đó là việc sử dụng ngân sách hiệu quả, tránh tham nhũng thất thoát. Ngân sách phải chi trả lương xứng đáng cho những công chức làm việc hiệu quả. Cán bộ thực thi không còn nhũng nhiễu là một trong những động lực thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư và phát triển. Đây là cách bền vững để tạo nguồn thu cho ngân sách.
- Ông NGUYỄN NGỌC TUẤN: Theo tôi, người đứng đầu phải làm gương để tạo ra văn hóa công chức trong công sở, và thỉnh thoảng, anh cũng phải đi “vi hành” đột xuất để xem cấp dưới làm việc như thế nào.
Tuy nhiên, chúng ta không thể nói suông việc cán bộ thuế, hải quan phải đồng hành cùng doanh nghiệp mà không có những hỗ trợ bằng tinh thần và vật chất cho họ. Đó là cơ chế lương, thưởng xứng đáng và sự tôn trọng của giới dân doanh. Tôi cho rằng, sự tôn trọng của doanh nghiệp và xã hội với những người làm ở ngành thuế, hải quan có ý nghĩa quan trọng, giúp làm thay đổi nhiều thứ.
Bản thân doanh nghiệp cũng cần phải thay đổi, phải thực sự xứng đáng với hai chữ doanh nhân chứ không thể là những con buôn, làm ăn chộp giật, luôn tìm cách trốn thuế..., như vậy mới không sợ bất kỳ ông cán bộ thuế hay ông cán bộ hải quan nào.
Tâm An thực hiện

Tuesday, 17 May 2016

Dự án đầu tư liên quan vùng ẩn thuế: Có hợp pháp?

Dự án đầu tư liên quan vùng ẩn thuế: Có hợp pháp?

Châu Huy Quang-Minh Hậu-Hoài Nam (*)

Vụ rò rỉ hơn 2.600 GB dữ liệu chứa thông tin của hàng trăm ngàn cá nhân, công ty đầu tư tại nước ngoài (offshore company) trong đó có Việt Nam đã bị tổ chức Liên minh Nhà báo Điều tra Quốc tế (ICIJ) công bố. Nhìn từ góc độ pháp luật Việt Nam, liệu những cá nhân và công ty tại Việt Nam hiện diện ở vùng ẩn thuế (tax haven) trong hồ sơ Panama có được xem là hợp pháp?


Giới đầu tư quốc tế thường dùng thuật ngữ “công ty vỏ bọc” hay “công ty lá chắn” (Shell Company) để chỉ các doanh nghiệp được thành lập tại những vùng ẩn thuế.
Ở Việt Nam giới doanh nghiệp, đội ngũ tư vấn luật, tài chính, đầu tư, cũng như cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư khá quen thuộc với mô hình doanh nghiệp có pháp nhân từ quần đảo Virgin, thuộc Liên hiệp Anh (gọi chung là Doanh nghiệp BVI). Theo báo cáo đầu tư trực tiếp nước ngoài trong năm 2015, số vốn đăng ký mới và tăng thêm từ các nhà đầu tư tại BVI vào Việt Nam là hơn 1 tỉ đô la Mỹ.
Hầu hết các doanh nghiệp thành lập tại BVI được hưởng mức thuế suất thu nhập doanh nghiệp (TNDN) ở mức thấp tối đa là 0% trong khi tại các quốc gia khác hiện nay dao động ở mức từ 9% đến 55%. Không có các sắc thuế phổ biến như thuế thu nhập cá nhân, giá trị gia tăng, môn bài, thuế nhà thầu, chuyển nhượng tài sản, cũng như hơn 10 sắc thuế khác mà Việt Nam cũng như nhiều nước đang duy trì và có xu hướng mở rộng.
Lá chắn trách nhiệm doanh nghiệp
Các công ty “lá chắn” giúp quản trị được rủi ro, giới hạn được trách nhiệm pháp lý cho chủ đầu tư, trong trường hợp các công ty con phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý ở các quốc gia họ đầu tư vào mà không ảnh hưởng đến công ty mẹ chính thống.
Dưới góc độ quản lý nhà nước về đầu tư của Việt Nam, việc cấp phép đầu tư cho doanh nghiêp BVI cũng chưa thấy có thiệt hại nào được thống kê. Tuy nhiên, nếu phát sinh tranh chấp pháp lý liên quan đến một công ty nước ngoài hoạt động ở Việt Nam, mà công ty mẹ là công ty vỏ bọc, thì năng lực liên đới chịu trách nhiệm chỉ có tính tượng trưng so với một nhà đầu tư có hoạt động thực tế.

Việc thực hiện nghĩa vụ thuế từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) có nhà đầu tư là doanh nghiệp từ BVI không khác so với các nhà đầu tư từ các quốc gia khác. Ngược lại, các nhà đầu tư đến từ các quốc gia, lãnh thổ độc lập, nơi có thiết lập quan hệ thương mại đa phương, song phương, quan hệ hỗ trợ kiểm soát thất thu thuế - kiểm soát tiền tệ với Việt Nam, có thể tận dụng hiệp định tránh đánh thuế hai lần mà Việt Nam đã tham gia ký kết với hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Như vậy, về mặt chính sách, các doanh nghiệp BVI, Cayman hay Panama không nhận được bảo hộ hoặc có lợi thế nào từ chính sách đầu tư của Việt Nam, so với các nhà đầu tư nước ngoài từ các quốc gia là thành viên chính thức của tổ chức WTO, hoặc các hiệp định song phương - đa phương với Việt Nam.
Ngược lại, doanh nghiệp BVI có thể đối mặt với những bất lợi nhất định. Chẳng hạn họ không có quyền đương nhiên được tiếp cận thị trường mở cửa theo lộ trình mà Việt Nam cam kết theo WTO, cũng như không được bảo hộ tư cách pháp lý chắc chắn thông qua các cam kết quốc tế của Việt Nam. Đơn cử như năm 2010, một nhà đầu tư quốc tịch Mỹ, ông Michael Mc Kenzie, chủ tập đoàn South Fork đã khởi kiện UBND tỉnh Bình Thuận ra cơ quan trọng tài quốc tế. Nhà đầu tư này yêu cầu một khoản bồi hoàn đầu tư là 3,7 tỉ đô la Mỹ khi một dự án đầu tư của South Fork bị thu hồi. Vụ kiện chỉ dừng lại khi Hội đồng trọng tài quốc tế (UNCITRAL) bác đơn kiện của South Fork vì xác định rằng vụ tranh chấp này không thuộc thẩm quyền của mình. Quyết định này xuất phát từ lý do khoản đầu tư của ông Mc Kenzie không được bảo hộ theo Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (hiệu lực từ tháng 12-2001), vì South Fork là một pháp nhân BVI, chứ không phải pháp nhân Hoa Kỳ khi đầu tư vào Việt Nam. 
Cũng như các nhà đầu tư khác, việc chuyển nguồn vốn đầu tư vào và chuyển lợi nhuận ra khỏi Việt Nam của nhà đầu tư BVI không có khác biệt. Sau khi hoàn tất các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam, hạch toán, báo cáo sổ sách theo quy định, nhà đầu tư BVI được chuyển lợi nhận ra nước ngoài thông qua hệ thống ngân hàng ở Việt Nam.
Lằn ranh mỏng manh giữa “tránh thuế” và “trốn thuế”
Vấn đề gây tranh cãi từ việc giải quyết bài toán thuế của nhà đầu tư nước ngoài rằng khi nào xem là tránh thuế, tức tận dụng chính sách thuế hợp pháp, và khi nào thành “trốn thuế”, tức tìm cách lẩn tránh nghĩa vụ thuế đối với quốc gia sở tại.
Bài toán thuế đơn giản nhất cho mô hình BVI được tóm lược là việc trung chuyển, “tung hứng giữa tay trái tay phải” của nhà đầu tư. Ở Việt Nam chưa có thống kê, nhưng đây là mô hình phổ biến ở quốc gia láng giềng Trung Quốc, mà theo điều tra của ICIJ, nhiều quan chức, lãnh đạo từ nước này có liên hệ đến các công ty trong danh sách Hồ sơ Panama.
Mô típ phổ biến thường thấy như việc một nhà đầu tư X, thành lập công ty A ở Việt Nam, đồng thời, thành lập một công ty B ở  BVI. Trong bất kỳ thương vụ nào, khi nhà đầu tư X thu được 10 đô la Mỹ cho công ty A của mình ở Việt Nam, thì X có thể phân bổ 9 đô la Mỹ cho công ty B ở BVI, thông qua các hình thức hợp đồng thương mại, tư vấn, dịch vụ hoặc môi giới. Như vậy, nhà đầu tư X chỉ có 1 đô là lợi nhuận chịu thuế, và 9 đô thành chi phí được trừ khi quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp. Khoản lợi nhuận 9 đô la Mỹ này sẽ được bảo lưu ngoài lãnh thổ Việt Nam và có thể dùng để chi tiêu, mua sắm, hay thương vụ khác bên ngoài lãnh thổ mà không thuộc tầm kiểm soát của Việt Nam.
Tương tự, nhà đầu tư X có thể dùng 10 đô la Mỹ của công ty B ở BVI để mua lô linh kiện máy móc từ Trung Quốc, rồi bán lại cho công ty A ở Việt Nam với giá 90 đô la Mỹ. Sau đó, công ty A thực bán lô hàng này lại trong nước với giá 100 đô la. Như vậy nhà đầu tư X chỉ phải đóng thuế trên 10 đô lợi nhuận, 80 đô lợi nhuận kia của X được lưu giữ ở tài khoản công ty B ở BVI. Các thông tin này hoản toàn được bảo mật, để tránh mối liên hệ, trực tiếp và tính liên đới, các người điều hành công ty B ở BVI chỉ là đứng tên danh nghĩa (nominee shareholder).
Việt Nam kiểm soát các nhà đầu tư danh nghĩa như thế nào?
Nhiều năm nay, có xu hướng gia tăng nhà đầu tư nước ngoài dùng pháp nhân BVI để đầu tư vào Việt Nam, Ngược lại, giống mô hình của Trung Quốc, một số nhà đầu tư Việt Nam ưa chuộng việc lập ra một doanh nghiệp ở BVI để đầu tư ngược vào Việt Nam dưới hình thức doanh nghiệp FDI. Như phân tích ở trên, có nhiều cách lý giải cho việc chọn mô hình này của doanh nghiệp hay người có thu nhập cao ở Việt Nam. Ngoài các vấn đề liên quan đến chính sách thuế nhà đầu tư còn dùng hình thức này để bảo lưu đồng ngoại tệ mạnh (thông thường đồng đô la Mỹ hoặc euro), phục vụ cho việc tái đầu tư, mua sắm tài sản, chi tiêu ở bên ngoài lãnh thổ mà không bị kiểm soát, hạn chế bởi chính sách quản lý ngoại tệ của Việt Nam.
Ví dụ, hiện nay, theo quy định của NHNN, cá nhân là công dân Việt Nam được quyền mua ngoại tệ tiền mặt tại tổ chức tín dụng được phép để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của bản thân (du lịch, du học, chữa bệnh) ở mức 100 đô la Mỹ/người/ngày, trong khoảng thời gian lưu trú 10 ngày. Mỗi cá nhân khi mang ngoại tệ ra nước ngoài, mức tối đa không phải xin phép và khai báo là 5.000 đô la cho mỗi lần xuất cảnh. Theo thống kê của “Sách trắng 2016” (Whitebook 2016) của Phòng Thương mại Châu Âu tại Việt Nam (Eurocham), riêng năm 2015, tổng số tiền mà 40.000 người Việt đã tiêu dùng cho việc điều trị bệnh ở nước ngoài là 2 tỉ đô la Mỹ. Nếu con số này chính xác, thử hỏi với quy định kiểm soát ngoại hối nghiêm ngặt như trên, làm thế nào các ngân hàng Việt Nam có thể “giải ngân” suôn sẻ 2 tỉ đô la trong một năm như vậy? Không loại trừ trường hợp các cá nhân, doanh nghiệp sử dụng các nguồn thu nhập được lưu giữ trong các tài khoản hải ngoại (offshore account), có sẵn ở BVI để chi tiêu. Chưa kể Việt Nam chưa có thống kê các khoản chi tiêu lớn hơn như mua sắm tài sản, bất động sản ở nước ngoài.
Hoạt động cấp phép đầu tư cho các công ty vỏ bọc nói riêng hay các công ty tại các vùng ẩn thuế nói chung vào Việt Nam xưa nay vẫn khó xác định tính minh bạch, nguồn gốc của dòng tiền. Quy định tại Luật Đầu tư yêu cầu nhà đầu tư chứng minh năng lực tài chính của mình, nhìn chung cũng chỉ tập trung chứng minh nhà đầu tư có tiền thực hay không (thông qua bản tự cam kết năng lực tài chính, sao kê tài khoản số dư ngân hàng và số tiền ký quỹ vào tài khoản ký quỹ), chứ cơ quan cấp phép cũng không chú trọng hoặc không thể có đủ điều kiện để xác minh được nguồn tiền đầu tư có “sạch” hay không.
Về khía cạnh tránh thuế, hay hoạt động chuyển giá như đề cập với ví dụ nhà đầu tư X nói trên, pháp luật Việt Nam (Thông tư 66/2010/TT-BTC, ngày 22/04/2010) đã có quy định các biện pháp nhằm xác định giá thị trường trong giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết. Tuy vậy, các quy định chống “quan hệ liên kết chuyển giá” dù khá công phu cũng dễ bị vô hiệu, ví dụ như nhà đầu tư X thực hiện đầu tư mô hình BVI nói trên. Việc chứng minh có hay không có sự “móc ngoặc” đối với các chủ đầu từ có hiện diện ở BVI là khá khó khăn.
Khâu kiểm soát nguồn tài chính, chống rửa tiền ở các dự án đầu tư nước ngoài, dự án trong nước nhưng đầu tư “dòng tiền lòng vòng” ra nước ngoài, luôn là thử thách đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam.
Do vậy, việc quản lý cấp phép các dự án FDI vào Việt Nam cần thực chất hơn. Kinh nghiệm hoạt động kinh doanh và báo cáo kiểm toán, tài chính của công ty mẹ nên được xem xét cẩn trọng. Ngoài ra, một trong những khâu quan trọng để kiểm soát nghĩa vụ thuế chính là kiểm soát hoạt động chuyển vốn, hoặc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, hoặc lợi nhuận chuyển về Việt Nam.
Cũng có thể tham khảo kinh nghiệm quản lý từ các quốc gia khác đối với vấn đề tránh thuế và trốn thuế để nâng cao chất lượng quản lý tại Việt Nam. Nhật Bản là một ví dụ tốt. Từ thập niên 70 của thế kỷ trước, Nhật Bản đã ban hành một đạo luật các biện pháp kiểm soát hoạt động kinh doanh tại những vùng ẩn thuế (Tax Haven Counter Measure Law) được áp dụng vào mọi công ty con của các nhà đầu tư Nhật được thành lập ở các vùng lãnh thổ có thuế suất thu nhập bằng hoặc thấp hơn 20%. Trên cơ sở này, cơ quan thuế của Nhật sẽ đánh thuế vào thu nhập của công ty mẹ đối với phần thu nhập không phải chịu thuế của các công ty con ở nước ngoài. Nhờ đó, sẽ hạn chế các trường hợp các công ty Nhật Bản thành lập công ty con ở những nơi ẩn thuế rồi phân bổ quyền nắm giữ các tài sản giá trị lớn sau đó nhằm mục đích cho các công ty mẹ thuê lại với chi phí lớn để giảm thiểu nghĩa vụ nộp thuế của các công ty mẹ ở Nhật Bản. Luật này chỉ cho phép ngoại lệ trong trường hợp các công ty con tại những vùng ẩn thuế có thể chứng minh đầy đủ về hoạt động thực tế tại các quốc gia mà công ty này đăng ký thành lập.
Thay lời kết
Gần 30 năm kể từ ngày chính thức mở cửa thị trường, Chính phủ Việt Nam vẫn đang nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, tiếp nhận làn sóng đầu tư nước ngoài FDI, cũng như khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thị trường bên ngoài. Hồ sơ Panama có thể là bài học tốt cho thấy sự thiết yếu trong việc xây dựng môi trường đầu tư thân thiện, nhưng phải minh bạch từ khâu xây dựng chính sách đầu tư, đến thực thi vận dụng chính sách đó vào thực tiễn. Có vậy mới hi vọng có một nền kinh tế, tài chính phát triển bền vững, mà không biến thành một “ốc đảo hay vùng trũng”, tạo dung môi lý tưởng cho các hoạt động phi pháp như tham nhũng, rửa tiền, chuyển giá và trốn thuế.
(*)LS Châu Huy Quang-Trọng tài viên – Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC)
Phạm Thị Minh Hậu-  Hãng luật R&T LCT Lawyers
Nguyễn Hoài Nam-Tổng giám đốc Berjaya Việt Nam

Saturday, 7 May 2016

Tăng chế tài hình sự xử lý quan hệ lao động: Dễ bị lạm dụng


LS. Châu Huy Quang(*) - Quách Đăng Khoa

(TBKTSG) - Bộ luật Hình sự (sửa đổi) số 100/2015/QH13, có hiệu lực từ ngày 1-7-2016 (BLHS 2015), bổ sung nhiều quy định theo hướng bảo vệ quyền lợi người lao động. Theo đó, người sử dụng lao động nếu đơn phương buộc thôi việc, sa thải người lao động trái luật định, có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Dấu hiệu bắt buộc cấu thành tội phạm này là người sử dụng lao động thực hiện hành vi vì tính “vụ lợi” hoặc do “động cơ cá nhân”, cưỡng ép hay đe dọa mà buộc thôi việc hoặc sa thải trái pháp luật đối với người lao động. Cấu thành tội phạm vật chất cho tội danh này là có gây ra hậu quả, cụ thể làm cho người lao động hoặc gia đình họ lâm vào hoàn cảnh khó khăn hoặc dẫn đến đình công.
Hình phạt tội danh này có thể bị phạt tiền (tối đa đến 200 triệu đồng), phạt cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù đến 3 năm. Ngoài ra, người bị buộc tội có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ đến 5 năm (Điều 162, BLHS 2015).
Quy định trên gây quan ngại đối với doanh nghiệp, người sử dụng lao động vì dễ bị lạm dụng trong thực tế. Doanh nghiệp có thể phải đối mặt với rủi ro pháp lý trong quá trình thực hiện chính sách tuyển dụng, tinh giảm nhân sự, trong khi việc thay đổi nhân sự (bao gồm cả đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động có bồi hoàn), là một giải pháp kinh tế được áp dụng linh hoạt theo nhu cầu của doanh nghiệp.
Chế tài hình sự này có lẽ xuất phát từ mục tiêu bảo vệ quyền lợi người lao động, bên yếu thế hơn trong việc xác lập, thực hiện quan hệ lao động. Hình sự hóa một số nhóm hành vi vi phạm pháp luật lao động đã được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội nhiều lần đề đạt, trên cơ sở khuyến cáo của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) bao gồm hơn 20 công ước của ILO đã được Việt Nam phê duyệt từ năm 1993 đến nay.
Tuy nhiên, tính phù hợp của việc “hình sự hóa quan hệ lao động” này trong thực tế của Việt Nam là mối quan ngại của nhiều chủ doanh nghiệp.
Khi quản lý nhân sự không còn là quyền tự quyết của doanh nghiệp
Sa thải hay cho thôi việc người lao động là việc người sử dụng lao động (NSDLĐ) tự ra quyết định đơn phương buộc chấm dứt quan hệ lao đối với người lao động. Theo quy định của Bộ luật Lao động (BLLĐ) năm 1994, biện pháp sa thải người lao động được xếp vào một trong các trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (HĐLĐ) của NSDLĐ, kèm một số điều kiện hạn chế. Đến BLLĐ 2012, hình thức cho thôi việc người lao động đã không còn là “quyền” mà NSDLĐ có thể sử dụng. Theo Điều 126 BLLĐ 2012, kỷ luật sa thải chỉ được áp dụng khi người lao động vi phạm nội quy và kỷ luật lao động ở mức nghiêm trọng, rơi vào một trong bốn trường hợp như quy định tại Điều 126 của Bộ luật này.
Pháp luật lao động hiện hành cũng trao rộng quyền cho người lao động hoặc công đoàn quyền khởi kiện doanh nghiệp, yêu cầu tiếp tục thực hiện HĐLĐ và bồi thường thiệt hại trong trường hợp người lao động bị cho thôi việc trái pháp luật. Tuy nhiên, việc nâng khung hình phạt hình sự truy cứu NSDLĐ theo Điều 162 BLHS là khá hà khắc, dễ bị lạm dụng. Xác định ranh giới giữa trách nhiệm kinh tế, dân sự của doanh nghiệp khi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng với trách nhiệm hình sự là khá mong manh, gây bất ổn trong quan hệ lao động.
Bản chất quan hệ lao động là quan hệ dân sự, việc các bên tự do thỏa thuận quyền, nghĩa vụ, bao gồm các chế tài kinh tế, thương mại cần được pháp luật tôn trọng, khuyến khích trong quan hệ lao động.
Chế tài kinh tế đã đủ hiệu quả
Cần nhìn nhận rằng bản chất quan hệ lao động là một quan hệ dân sự. Quan hệ này xác lập căn bản dựa trên cơ sở tự nguyện, mà hàng hóa đặc thù là sức lao động tự do chuyển nhượng trên thị trường. Do vậy, các bên có thể tự thỏa thuận quyền, nghĩa vụ cũng như áp dụng chế tài dân sự đối với nhau nếu một trong hai bên vi phạm HĐLĐ, bao gồm cơ chế một bên có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ trước thời hạn, nếu chấp nhận bồi hoàn thương mại cho bên còn lại.
Theo tinh thần của Điều 162, một cá nhân có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu như vì động cơ cá nhân mà sa thải người lao động, gây hậu quả vật chất cho người lao động. Điều này kế thừa quy định trong BLHS năm 1999 (Điều 128) nhưng với nội hàm rộng hơn. Cách hiểu quy định “vụ lợi” hoặc “động cơ cá nhân” có thể bất cập, làm sao tách bạch được động cơ cá nhân, tính tư lợi của chủ doanh nghiệp với lợi ích của doanh nghiệp do chính họ sở hữu, quản lý điều hành hàng ngày.
Thử hỏi doanh nghiệp liệu có động cơ nào chính đáng hơn là mục đích sinh lợi, trong đó, việc “dụng nhân” sẽ góp phần trực tiếp cho sự thành bại của doanh nghiệp. Do vậy, sa thải hay thay thế nhân sự xuất phát từ quyền tự quyết, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp. Khi tinh lọc nhân sự mà bản thân chủ doanh nghiệp phải chứng minh mình không có “động cơ vụ lợi” hay luôn phải bóc tách động cơ, lợi ích cá nhân ra khỏi động cơ phát triển, hiệu quả của doanh nghiệp là suy diễn khiên cưỡng.
Thừa chế tài, thiếu ứng dụng
Trong thị trường lao động tự do, những tranh chấp xung đột quyền lợi giữa hai bên là điều khó tránh. Các chế tài dân sự, thương mại trong Bộ luật lao động và Bộ luật Dân sự hiện hành, đang được thực thi, cũng đã đủ để bảo vệ người lao động hiệu quả. Nhóm chế tài “trừng phạt kinh tế” này bao gồm quyền của người lao động được bồi hoàn toàn bộ tiền lương, bảo hiểm, cộng ít nhất 2 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động, nhận lại người lao động hoặc thỏa thuận bồi thường thêm nếu họ không muốn tiếp tục hợp đồng lao động.
Một quốc gia có nền lập pháp phát triển như Singapore, việc sa thải trái pháp luật hoặc vi phạm thoả thuận trong hợp đồng lao động không nằm trong nhóm tội hình sự. Chế tài áp dụng quy định tại Đạo luật Lao động (Employment Act) của Singapore cho phép người lao động khởi kiện lên Bộ Nhân lực (Ministry of Manpower) và tòa án lao động để bảo vệ quyền lợi của mình khi bị sa thải trái pháp luật. Chế tài mà người lao động tìm kiếm là bồi hoàn về kinh tế, khôi phục quyền lợi lao động cho mình chứ không có cơ chế áp dụng chế tài hình sự. Vì vậy, cần xem xét lại việc mở rộng hình sự hoá các quan hệ mang tính dân sự để tránh án oan sai, tạo tâm lý yên tâm cho dân doanh, nhất là khu vực doanh nghiệp tư nhân và nhà đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.
Tương tự, một quốc gia trong khu vực ASEAN có môi trường đầu tư cũng như thị trường lao động cạnh tranh trực tiếp với Việt Nam như Indonesia, Đạo luật Nhân sự 2013 của họ (the Manpower Law), đưa ra 10 trường hợp không được sa thải người lao động và cho phép 10 trường hợp mà doanh nghiệp có quyền sa thải. Indonesia không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với chủ doanh nghiệp có hành vi sa thải hay cho thôi việc trái pháp luật như chế tài hình sự Việt Nam áp dụng.
“Lọt sổ” quy định ảnh hưởng đến môi trường đầu tư
Như đề cập trên, bản chất quan hệ lao động là quan hệ dân sự, tức căn bản được xác lập trên cơ sở tự nguyện, tự do thỏa thuận giữa các chủ thể tham gia. Việc các bên tự do thỏa thuận quyền, nghĩa vụ, bao gồm các chế tài kinh tế, thương mại cần được pháp luật tôn trọng, khuyến khích trong quan hệ lao động.
Ngoài ra, cũng cần phải lưu ý rằng pháp luật lao động Việt Nam thiên về hướng bảo về quyền lợi của người lao động. Tinh thần như vậy cũng đúng đắn. Nhưng bảo vệ bằng mọi giá, bao gồm áp dụng chế tài hình sự nghiêm khắc cho một quan hệ thuần túy dân sự như quan hệ lao động thì việc duy trì hài hòa quan hệ lao động, cân bằng lợi ích giữa các bên, đảm bảo ổn định kinh tế - xã hội là khó khả thi. Nhất là những quy định như vậy làm môi trường lao động, môi trường đầu tư của Việt Nam giảm sức cạnh tranh, làm tăng tính hà khắc không cần thiết.
Quan trọng hơn, đã đến lúc các nhà làm luật của Việt Nam cần cẩn trọng hơn nữa để không “lọt sổ” những quy định hình sự hóa tương tự, ít nhất là trong các luật, đạo luật thuộc thẩm quyền Quốc hội ban hành, nhằm hài hòa quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động.
Sử dụng chế tài kinh tế xử lý các hành vi vi phạm quan hệ hợp đồng lao động, có lẽ là cách tiếp cận phù hợp và có hiệu quả hơn là việc chúng ta thêm thiết chế hình sự hóa quan hệ dân sự này.
(*) Luật sư R&T LCT Lawyers; Trọng tài - Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC)

Saturday, 30 April 2016

Quyền tự do kinh doanh: Tương thích và bất cập

LS. Lê Bích Trâm - LS. Châu Huy Quang (*)
(TBKTSG) - Pháp luật Việt Nam có bước phát triển quan trọng khi ghi nhận quyền tự do kinh doanh trong Hiến pháp 2013, trong bối cảnh Việt Nam tham gia đàm phán, ký kết các hiệp định về thương mại với các nước và khu vực. Sự tương quan giữa khung pháp lý nội địa với các cam kết quốc tế, việc thực thi quyền tự do kinh doanh (TDKD) vẫn là một vấn đề cần hoàn thiện.
Theo Nghị quyết 19/NQ-CP ngày 12-3-2015, Chính phủ chỉ đạo rút ngắn thời gian thực hiện các thủ tục cấp phép kinh doanh cho doanh nghiệp tối đa chỉ sáu ngày. Nhưng theo thống kê gần đây của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hiện tồn tại đến 5.826 điều kiện đầu tư kinh doanh, áp dụng đối với 267 ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. 50% số này được ban hành không đúng thẩm quyền.
Liên quan câu chuyện “kinh doanh trái phép” của ông Nguyễn Văn Tấn đang làm nóng dư luận suốt tuần rồi, ngay cả trong trường hợp các cơ quan tư pháp của huyện Bình Chánh công tâm khởi tố đúng người, đúng tội danh, xét cả yếu tố chủ quan, khách quan, có lẽ lỗi ngay tình không hẳn của riêng ông Tấn, mà còn lỗi của cả một “hệ thống” cấp phép, đăng ký kinh doanh. Theo thông tin báo chí đăng tải, nếu tính từ tháng 8-2015 đến khi bị khởi tố, thì hơn tám tháng sau kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, ông chủ doanh nghiệp nhỏ này vẫn chưa thể tiến hành kinh doanh, vì chưa có giấy phép chính, giấy phép con để khởi nghiệp ở quy mô nhỏ.
Tự do kinh doanh là quyền Hiến định
Quyền TDKD lần đầu tiên được ghi nhận chính thức tại điều 57, Hiến pháp 1992. Kế thừa tinh thần đó, điều 33 Hiến pháp 2013 khẳng định người dân có quyền TDKD trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Cụ thể hóa, Luật Doanh nghiệp 2014 (LDN) và Luật Đầu tư 2014 (LĐT) khẳng định doanh nghiệp có quyền tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà luật không cấm.
Quyền TDKD về cơ bản được cụ thể hóa qua một số quyền như quyền tự do thành lập doanh nghiệp, lựa chọn ngành nghề kinh doanh, quyền tiếp cận thị trường, quyền bình đẳng, tự do cạnh tranh lành mạnh, quyền được đảm bảo sở hữu tài sản của doanh nghiệp.
Kể từ thập niên 90 của thế kỷ trước, Việt Nam đã ký nhiều hiệp định song phương. Tuy nhiên, các hiệp định thường có phạm vi bảo hộ hẹp, chỉ áp dụng cho các hoạt động đầu tư trực tiếp, không bao gồm hoạt động đầu tư gián tiếp. Đến thế hệ các hiệp định FTA, đặc biệt là hiệp định TPP, phạm vi cam kết đa phương rộng hơn với các yêu cầu mở cửa thị trường, bao gồm các quy định đối xử quốc gia, đối xử tối huệ quốc, các chuẩn mực đối xử tối thiểu, các nguyên tắc về thế quyền, cơ chế bồi thường đầu tư, cơ chế giải quyết tranh chấp.
Tinh thần chung của TPP theo nguyên tắc “chọn bỏ”, nhằm mở rộng và thực thi quyền TDKD toàn diện, đầy đủ hơn cho nhà đầu tư giữa các nước thành viên.
Mục tiêu LDN và LĐT là đơn giản hóa điều kiện, thủ tục cấp phép, dỡ bỏ hàng loạt hạn chế, bất cập của quy định cũ, mở rộng các nhóm quyền tự quyết của doanh nghiệp.
LDN hiện nay gia tăng các quyền của doanh nghiệp, bao gồm điều tiết nguồn vốn trong kinh doanh, tăng giảm vốn điều lệ, quyền tự do biểu quyết, một doanh nghiệp có nhiều hơn một chức danh giám đốc, quyền được giữ chức danh giám đốc đồng thời cho nhiều doanh nghiệp, quyền tự khắc và quản lý con dấu. Nhà đầu tư nước ngoài có quyền lựa chọn phương thức bảo hộ, giải quyết các tranh chấp đầu tư ngoài hệ thống cơ quan tư pháp tòa án của một quốc gia, như được chọn cơ chế giải quyết theo trọng tài thương mại quốc tế, cơ chế giải quyết tranh chấp bảo hộ đầu tư (ISCID)...
Bộ luật Hình sự mới (Số 100/2015/QH13) cũng đã bỏ tội danh kinh doanh trái phép. Nhà nước chủ trương tránh hình sự hóa các quan hệ kinh tế - dân sự, tôn trọng và bảo đảm nguyên tắc người dân, doanh nghiệp được kinh doanh những gì mà pháp luật không cấm. Thực tế, khi áp dụng Điều 159, BLHS 1999, rủi ro pháp lý có thể xảy ra cho bất kỳ chủ doanh nghiệp kinh doanh đa năng, đa ngành nào, vì nguy cơ dễ bị “xét nét” và đối mặt tội danh kinh doanh không có đăng ký hoặc kinh doanh không đúng nội dung đã đăng ký.
Quy định đăng ký ngành nghề kinh doanh liệu đã tương thích?
Qua gần một năm thực thi LDN, LĐT 2014 (hiệu lực từ 1-7-2015), danh mục ngành nghề cấm kinh doanh hay kinh doanh có điều kiện vẫn còn khá nhiều điểm chưa tương thích các nguyên tắc cam kết tại các hiệp định như TPP, FTA.
Ngay từ khâu đăng ký kinh doanh, nhà đầu tư có thể vấp phải rào cản thủ tục mã hóa ngành nghề dựa vào Hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam.
Hiện quy định hệ thống mã số ngành căn cứ theo Quyết định 10/2007/QĐ-TTg ngày 23-1-2007 của Thủ tướng Chính phủ và Biểu cam kết thương mại dịch vụ của Việt Nam trong Tổ chức Thương mại Thế giới (“Cam kết WTO”). Nghị định 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp tại điều 7.5 quy định đối với những ngành, nghề kinh doanh không có trong hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam, cơ quan đăng ký kinh doanh xem xét ghi nhận ngành, nghề kinh doanh này vào cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp nếu không thuộc ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh.
Tuy vậy, không ít nhà đầu tư gặp khó khăn nếu chọn kinh doanh những ngành nghề không thuộc danh mục ban hành. Yêu cầu “mã hóa” ngành nghề kinh doanh tương thích với hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam là một cản trở đối với doanh nghiệp khi mở rộng đầu tư theo nhu cầu của mình.
Nếu LDN đã ghi nhận quyền TDKD trong những ngành, nghề mà luật không cấm, việc quy định tương tự như yêu cầu đăng ký ngành nghề tương thích với quy định Hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam (áp dụng từ năm 2007) có lẽ không còn tương thích.
Tại một số nước thành viên khác của TPP như Malaysia, Singapore, thủ tục đăng ký kinh doanh được tối giản, thực hiện qua các kênh trực tuyến. Giấy chứng nhận thành lập do Cơ quan Đăng ký doanh nghiệp của Singapore (Certificate of Incorporation) cấp chỉ nhằm ghi nhận việc thành lập công ty với dung lượng thông tin trong phạm vi một trang giấy A4 mà không phải liệt kê áp mã ngành nghề. Nhiều quốc gia thành viên TPP như Úc hay New Zealand từ lâu cũng đơn giản hóa thủ tục cấp phép. Họ không yêu cầu phải ghi thông tin mục đích và phạm vi hoạt động kinh doanh, bao gồm cả thông tin về người đại diện và vốn đầu tư trên giấy chứng nhận thành lập. Việc này giúp doanh nghiệp có thể tự do rút gọn hoặc mở rộng ngành nghề kinh doanh, không phụ thuộc vào thủ tục sửa đổi giấy chứng nhận thành lập doanh nghiệp như cách áp dụng hiện tại của ta.
Điều kiện đầu tư kinh doanh theo cam kết quốc tế
Ngoài nguyên tắc “chọn bỏ” đã đề cập ở trên, để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, Hiệp định TPP dành riêng một chương định hướng loại bỏ các rào cản kỹ thuật không cần thiết đối với thương mại. Cũng theo yêu cầu về đầu tư, điều 9.9 của TPP quy định, về nguyên tắc, trong trường hợp thành lập, mua lại, mở rộng, điều hành, triển khai, vận hành, kinh doanh hoặc các hình thức chuyển nhượng dự án đầu tư mà nhà đầu tư của bên tham gia hoặc không tham gia hiệp định thực hiện trong lãnh thổ của mình, không thành viên nào có quyền đặt ra hoặc đưa vào áp dụng các yêu cầu, hoặc có quyền ban hành cam kết riêng lẻ.
Pháp luật kinh doanh của Việt Nam chưa sát với lộ trình hội nhập
Đơn cử là ngành nghề đại lý vận tải hàng hóa - logistics, theo cam kết WTO. Từ 1-1-2014, các nhà đầu tư nước ngoài được thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đối với ngành nghề này. Tuy nhiên, Nghị định 140/2007 liên quan lĩnh vực này, được áp dụng gần 10 năm qua, vẫn yêu cầu nhà đầu tư nước ngoài phải thành lập liên doanh với nhà đầu tư Việt Nam. Mặc dù yêu cầu về tỷ lệ sở hữu vốn đối với bên nước ngoài trong liên doanh là không hạn chế, có thể đạt 99,9%. Điều này gây ra việc áp dụng pháp luật khác nhau tại nhiều địa phương, không hiệu quả gì về kinh tế, lại gây trở ngại cho nhà đầu tư.
Đối với các ngành dịch vụ chưa cam kết, về nguyên tắc nhà đầu tư phải xin ý kiến của Chính phủ, cơ quan chuyên ngành, để xem xét quyết định. Dưới góc độ của nhà đầu tư, việc đưa ra một quyết định đầu tư kinh doanh trong trường hợp tương tự là khó khăn, vì việc cấp phép dựa trên cơ chế “xin-cho” theo sự vụ.
Theo quy định tại chương 9 của TPP, thì sau khi hiệp định này có hiệu lực, Việt Nam sẽ mở cửa đối với tất cả ngành nghề, ngoại trừ một số ngành cam kết tại phụ lục 1 và 2 của hiệp định này. Tuy nhiên, LĐT vừa ban hành năm 2014 vẫn kèm theo một phụ lục khá lớn các ngành nghề được phân loại thuộc “ngành nghề kinh doanh có điều kiện”, trong đó bao gồm nhiều ngành mà Việt Nam đã cam kết mở cửa theo TPP.
Theo lộ trình, Hiệp định TPP cần thời gian hai năm để các nước thành viên phê chuẩn hiệu lực. Tuy nhiên việc rà soát, xây dựng hành lang pháp luật kinh doanh có lẽ phải bắt đầu từ bây giờ. Quá trình rà soát, ban hành và công bố danh mục “ngành nghề kinh doanh có điều kiện” được tiến hành khá chậm. Cho đến nay, chưa có văn bản từ nghị định trở xuống quy định thống nhất về danh mục “ngành nghề kinh doanh có điều kiện” cũng như các điều kiện đầu tư kinh doanh, trong khi thời hạn bãi bỏ điều kiện đầu tư kinh doanh tại các thông tư là ngày 1-7-2016 đã đến gần. Do đó, các điều kiện đầu tư kinh doanh trong các văn bản dưới luật vẫn là quan ngại của doanh nghiệp.
Giải phóng quyền tự do kinh doanh đến đâu
Do đặc thù phát triển mỗi nước khác nhau, mỗi quốc gia có những quan tâm khác nhau, trình độ phát triển kinh tế-xã hội khác nhau, nên luật pháp luôn có độ vênh nhất định. Tuy nhiên, một khi chọn hội nhập, hệ thống pháp luật nội địa buộc phải tương thích với các cam kết, điều ước, hiệp định thương mại quốc tế.
Việt Nam tiếp tục phải tháo dỡ các rào cản từ khung pháp lý đến thể chế. Chính phủ, bộ ban ngành cần quyết liệt hơn cho “khai tử” hệ thống giấy phép con, giảm mệnh lệnh hành chính ảnh hưởng đến quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp.
Đảm bảo quyền tự do kinh doanh thực chất là yêu cầu giải phóng năng lực cho doanh nghiệp trong môi trường đầu tư đòi hỏi có hệ thống chính sách dễ tiếp cận, thân thiện, nhất quán và minh bạch. Giải phóng quyền này thành công hay không, phần lớn phụ thuộc vào quyết tâm của Việt Nam thực hiện triệt để đến đâu phương châm không mới “Công dân được làm những gì pháp luật không cấm, viên chức chỉ được làm những gì pháp luật cho phép”. Có như vậy, doanh nghiệp, người dân mới có thể tin rằng những quyết định “hình sự hóa” như vụ việc ông Nguyễn Văn Tấn, sẽ sớm thành “án lệ xấu”, để không bao giờ có cơ hội lặp lại.
(*) Hãng luật Rajah & Tann LCT Lawyers; Trọng tài Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC).