Sunday, 13 July 2014

QUYỀN PHÒNG VỆ CỦA VIỆT NAM

(DĐDN) – Trong cuộc họp báo quốc tế do Bộ Ngoại giao VN tổ chức vào chiều ngày 7/5/2013 về vụ giàn khoan Hải Dương – 981 của Trung Quốc (TQ) xâm phạm vùng biển VN, Phó Tư lệnh cảnh sát biển Ngô Ngọc Thu khẳng định nếu tàu TQ tiếp tục đâm tàu VN, chúng ta sẽ có những hành động tự vệ để đáp lại.

Đây được xem là thông điệp mạnh mẽ từ cơ quan chấp pháp của VN khi đề cập sử dụng quyền phòng vệ quốc gia khi có quốc gia khác sử dụng vũ lực tấn công và đe dọa tấn công trong vùng biển thuộc quyền tài phán, quyền chủ quyền của VN.


Nội hàm của Điều 51 của Hiến chương cho phép quyền tự vệ của mỗi quốc gia thành viên như Philipphines, VN xây dựng dựa trên hai thành tố: sự cần thiết và sự tương xứng của mỗi hành động tự vệ.
Trong nhiều thập niên, vấn đề gây tranh luận trong công pháp quốc tế là khi nào một hành động đáp trả tự vệ được xem là cần thiết và chính đáng. Có thể có hành động tự vệ hợp pháp hoặc không hợp pháp khi “vượt quá” phòng vệ chính đáng. Dưới góc độ này, hành động tự vệ cần được biện minh từ ý nghĩa xác đáng và có giới hạn của sự phòng vệ, chỉ nhằm đáp trả vũ lực hoặc ngăn chặn sự đe dọa dùng vũ lực. Lý lẽ về sự biện minh này của Liên Hiệp Anh được công nhận rộng rãi trong tập quán công pháp quốc tế.
Tinh thần của vụ Caroline sau này được luật hóa tại Điều 51 của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc (LHQ), theo đó quy định:
Không có một điều khoản nào trong Hiến chương này làm tổn hại đến quyền tự vệ cá nhân hay tập thể chính đáng trong trường hợp Thành viên LHQ bị tấn công vũ trang cho đến khi Hội đồng Bảo an áp dụng những biện pháp cần thiết để duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Những biện pháp mà các Thành viên LHQ áp dụng trong quyền tự vệ chính đáng ấy phải được thông báo ngay cho Hội đồng Bảo an và không được gây ảnh hưởng gì đến quyền hạn và trách nhiệm của Hội đồng Bảo an, tham chiếu theo Hiến chương này, đối với việc Hội đồng Bảo an áp dụng bất kỳ lúc nào những hành động mà Hội đồng thấy cần thiết để duy trì hoặc khôi phục hòa bình và an ninh quốc tế”.
Sử dụng quyền phòng vệ trong thực tiễn
Có quan điểm lo ngại liệu Điều 51 có thay thế các phòng vệ theo tập quán tự nhiên (customnary nature) trong hành xử quốc tế. Tập quán phòng vệ quốc tế hiện hữu song song với công pháp quốc tế. Do vậy, tòa án công lý quốc tế, tòa trọng tài quốc tế giữ vai trò quan trọng trong việc phân định có kết hợp giữa công pháp và tập quán quốc tế khi xét quyền tự vệ của quốc gia. Chẳng hạn, tòa trọng tài quốc tế cần “định danh” các hành động vũ lực leo thang của TQ trên Biển Đông hiện nay có thuộc nhóm hành động “chính chủ” của Chính phủ nước này khi có dấu hiệu dùng vũ lực trong vùng biển thuộc quyền tài phán, quyền chủ quyền của quốc gia có chủ quyền khác và vì thế phải bị đáp trả thích đáng.
Trong bối cảnh như vậy, sự cân nhắc của các quốc gia láng giềng như VN, Philippines đặt ra có lẽ là các hành động leo thang vũ lực của TQ có phát sinh quyền phòng vệ hợp pháp cho chúng ta đủ đáp trả lại TQ trong khuôn khổ luật pháp quốc tế.
Minh chứng phát sinh quyền phòng vệ chính đáng
Để có thể có quyền phòng vệ chính đáng, minh chứng quốc gia bảo vệ quyền phòng vệ của mình khi lãnh thổ, công dân, tài sản của quốc gia mình thành “nạn nhân” kết quả của việc dùng vũ lực quân sự của quốc gia khác. Chẳng hạn, TQ tổ chức chủ động hàng trăm vụ đâm va có tính chất “tấn công quân sự” (arm attacked), trực diện vào tàu ngư dân, lực lượng cảnh sát biển, kiểm ngư của VN cũng là minh chứng cho việc đó. Thực tế, cũng không dễ khi chứng minh hành động tấn công quân sự một khi có “núp bóng dân sự” để định danh hành động dùng vũ lực quân sự của một quốc gia. Chẳng hạn việc tấn công một con tàu thuộc sở hữu của một quốc gia đôi khi không đồng nghĩa với việc tấn công quân sự vào một quốc gia. Tuy vậy vẫn có cơ chế để phát sinh quyền “phòng vệ chính đáng” khi một quốc gia bị tấn công trực diện hay gián tiếp bởi một chuỗi hành động cố ý của quốc gia khác.
Tương tự, chứng minh hành động vũ lực như thế nào là nghiêm trọng để một quốc gia phát sinh quyền tự vệ đáp trả phù hợp luật pháp quốc tế cũng không đơn giản. Chẳng hạn một “tấn công quân sự” được xem là đã “cấu thành” ngay tại thời điểm hệ thống radar định vị của một tàu biển, tàu bay của một quốc gia bị đột nhập phá hoại. Tương tự, một cơ quan ngoại giao ở nước ngoài bị tấn công bởi lực lượng quân sự của nước sở tại cũng có thể phát sinh quyền phản vệ của quốc gia. Hoa Kỳ đã khởi động một cuộc chiến quy mô toàn cầu chống khủng bố khi một số cơ quan ngoại giao của nước này bị đánh bom ở Sudan và Tanzania vào tháng 8/1998 cũng bằng cách vận dụng quyền phòng vệ theo Điều 51 của Hiến chương LHQ.
Có quyền phòng vệ đáp trả khi bị tấn công bởi lực lượng “phi quân sự”
Trong công pháp quốc tế hiện đại, quyền phòng vệ của quốc gia được xác lập rõ ràng khi bị tấn công quân sự bởi một quốc gia khác. Vấn đề đặt ra là quyền phòng vệ quốc gia có thể phát sinh hay không khi bị tấn công bởi lực lượng “phi quân sự” của một quốc gia khác? Trong thực tiễn phân xử, tòa án quốc tế thường không chấp nhận luận cứ cho rằng quyền phòng vệ có thể phát sinh trong trường hợp có một quốc gia cung cấp nguyên khí tài, hậu cần để hỗ trợ lực lượng nổi dậy chống lại quốc gia khác. Mặc dù những sự hỗ trợ như vậy cũng trực tiếp hoặc gián tiếp vi phạm nguyên tắc “dùng vũ lực” hoặc “đe dọa dùng vũ lực” để chống lại một quốc gia có chủ quyền khác. Có lẽ các cơ quan tài phán mong muốn tránh bị “lạm dụng” ý nghĩa đúng đắn của “quyền phòng vệ chính đáng”, tránh sai lệch tinh thần của Điều 51 khi quyền tự vệ chỉ có thể phát sinh chỉ khi có hành động “tấn công quân sự” của một quốc gia.
Quyền phòng vệ quốc gia sau sự kiện ngày 11/9
Khi chủ nghĩa khủng bố cực đoan bùng nổ, mà đỉnh điểm là cuộc tấn công Tòa Tháp đôi của Hoa Kỳ vào ngày 11/9/2001, cách diễn dịch Điều 51 rộng hơn thông qua Nghị quyết 1373 ngày 29/8/2001 của Hội đồng Bảo an cho phép các quốc gia thành viên LHQ tiến hành các động thái cần thiết để ngăn ngừa các hành động khủng bố. Tức một quốc gia có thể có hành động tự vệ phòng chống, đáp trả khi bị tấn công lực lượng khủng bố từ một quốc gia khác. Vụ tấn công lực lượng Taliban ở Afghanistan của liên minh quân sự do Hoa Kỳ dẫn đầu là minh chứng cho sự thay đổi một phần học thuyết phòng vệ này.
Quyền tiền phòng vệ – ngăn chặn trước – của 1 quốc gia
Ngày nay khi mà trình độ vũ khí – khí tài quân sự của các quốc gia lớn như TQ ngày càng tối tân, do vậy, quốc gia bị tấn công có ít thời gian để cân nhắc và chuẩn bị động thái đáp trả tương xứng. Phát sinh vấn đề gây tranh luận tại các cơ quan tài phán liên quan là liệu khi nào phát sinh quyền “tiền phòng vệ” hợp pháp của một quốc gia. Quan điểm cho rằng quyền “tiền phòng vệ” phát sinh hợp pháp từ thời điểm các tính toán dựa trên việc một quốc gia huy động lực lượng và chuẩn bị động thái quân sự có tính toán chống lại quốc gia khác. Cơ bản có thể xem các động thái có cấu thành hành vi “đe dọa sử dụng vũ lực” tức vi phạm luật pháp quốc tế, thay vì đợi đến hậu quả của hành động tấn công quân sự mới phát sinh quyền phòng vệ của một quốc gia.

Lập trường nhất quán của VN là đấu tranh hòa bình lấy luật pháp quốc tế làm nền tảng, trong đó bao gồm thực thi quyền “tiền phòng vệ” và quyền phòng vệ chính đáng.
Như vậy, nội hàm của Điều 51 của Hiến chương cho phép quyền tự vệ của mỗi quốc gia thành viên như Philipphines, VN xây dựng dựa trên hai thành tố: sự cần thiết và sự tương xứng của mỗi hành động tự vệ. Đáp ứng hai thành tố này đòi hỏi quốc gia bị đe dọa hoặc tấn công quân sự cần minh chứng được hệ quả nếu buộc phải có hành động đáp trả, ngăn chặn.
VN trong sự đồng thuận của cộng đồng quốc tế khi thực thi quyền phòng vệ
VN, một dân tộc yêu chuộng hòa bình, có lịch sử hào hùng trong tranh đấu cho hòa bình, cho nền độc lập tự quyết và quyền toàn vẹn lãnh thổ, Chính phủ tiếp tục có đối sách thận trọng nhưng xác đáng trước hành động khiêu khích, đe dọa có chủ đích của TQ trên Biển Đông. Lập trường nhất quán của VN là đấu tranh hòa bình lấy luật pháp quốc tế làm nền tảng, trong đó bao gồm thực thi quyền “tiền phòng vệ” và quyền phòng vệ chính đáng.
TQ dường như đang biến “Giấc mơ Trung Hoa” thành “Cơn mộng dân tộc hẹp hòi” bởi nhiều “bao biện”, phớt lờ các nguyên tắc, chuẩn mực hành xử có lương tri, bất tuân thủ luật pháp quốc tế. Vì vậy, VN cần có đáp trả chính nghĩa, chính danh trong khuôn khổ luật pháp quốc tế, trong sự đồng thuận cao của cộng đồng quốc tế. Quyền “tiền phòng vệ” thực hiện quyền phòng vệ chính đáng của quốc gia cần thực thi có đệ trình lên Hội đồng Bảo an phù hợp Điều 51 Hiến Chương, thể hiện tâm thế một quốc gia thành viên LHQ cùng chia sẽ sứ mệnh duy trình hòa bình và an ninh trong khu vực Biển Đông.
Lịch sử quyền phòng vệ chính đáng của một quốc gia (the right of self-defence) xuất phát từ vụ việc Caroline xảy ra giữa Liên Hiệp Anh và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ từ những năm 1837. Khởi nguồn từ sự kiện một đội quân nổi dậy người Canada do William Lyon Mckenzie lãnh đạo chống lại Chính phủ Liên Hiệp các thuộc địa Anh. Chính phủ Mỹ tuyên bố giữ vai trò trung lập, nhưng một số cộng đồng Mỹ hậu thuẫn cho quân nổi dậy về nhân sự, hậu cần và tiếp tế chuyên chở bằng con tàu có tên Caroline.

Để đáp trả, lực lượng quân sự Liên Hiệp Anh từ Canada xâm nhập vào lãnh thổ của Hoa Kỳ vào đêm 29/12/1837 chiếm giữ, tiêu hủy con tàu Caroline và đẩy xuống vực thác Niagara. Một công dân Mỹ đã bị giết hại trong cuộc tấn công, gây khủng hoảng chính trị, ngoại giao gữa hai quốc gia.

Chính phủ Anh biện minh cho cuộc tấn công này từ quan điểm đây là hành động phòng vệ chính đáng, đáp trả ngay lập tức, tương xứng với hành động của quân nổi dậy, có sự hậu thuẩn của công dân Hoa Kỳ, xảy ra trong một bối cảnh mà quân đội Anh không có một lựa chọn nào khác, không còn đủ thời gian để cân nhắc một động thái thích hợp khác.

Từ án lệ Caroline, hai thành tố cơ bản để luật hóa cho một hành động phòng vệ tự vệ của một quốc gia gồm

1 – Sự cần thiết (Neccesity): việc sử dụng vũ lực đáp trả phải là trường hợp tối cần thiết bởi sự đe dọa rõ ràng và do vậy việc sử dụng một giải pháp hòa bình thay thế là không thể đạt được;

2 – Sự tương xứng (Proportionality): tức hành động đáp trả phải có tính tương xứng với sự đe dọa, nguy hiểm.

LS. Châu Huy Quang
Trọng tài viên VIAC, Giảng viên Học viện Tư pháp