Friday, 28 February 2014

Làm sao để xác định "doanh nghiệp có chủ bỏ trốn"?

(TBKTSG Online) - Việc doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, có chủ bỏ trốn, từ lâu đã gây khó khăn cho chính quyền trong việc giải quyết, chi trả cho người lao động bị nợ lương. Mới đây UBND TPHCM đã gửi công văn lên Thủ tướng để xin ý kiến về hướng giải quyết vấn đề, trong đó khó khăn về mặt pháp lý là xác định thế nào là "doanh nghiệp có chủ bỏ trốn" để có biện pháp xử lý thích hợp.
TBKTSG Online đã trao đổi với luật sư Châu Huy Quang, Luật sư điều hành Công ty Rajah & Tann LCT Lawyers tại TPHCM, và ông có một số gợi ý giúp giải quyết vấn đề đã tồn đọng từ lâu này.
Với các quy định, hướng dẫn hiện hành, theo ông đã đủ cơ sở để xác định thế nào là “doanh nghiệp có chủ bỏ trốn” chưa? Và qua đó có các biện pháp xử lý tài sản hay dùng ngân sách chi trả cho người lao động ở các doanh nghiệp này?
-LS. Châu Huy Quang: Hướng dẫn hiện tại còn chưa cụ thể để giúp xác định đối tượng doanh nghiệp nào là doanh nghiệp rơi vào tình trạng pháp lý “có chủ sở hữu bỏ trốn”.
Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành không có quy định nào về việc xác định “doanh nghiệp có chủ sở hữu bỏ trốn”. Tuy nhiên theo điểm 1, phần III Thông tư liên tịch 06/2009/TT-BLDTBXH-BTC, có định nghĩa  "Doanh nghiệp có chủ doanh nghiệp bỏ trốn là doanh nghiệp không có người đại diện hợp pháp đứng ra giải quyết quyền lợi của người lao động và được ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc cơ quan được ủy ban nhân dân cấp tỉnh ủy quyền xác định".
Với định nghĩa trên, chúng tôi cho rằng hướng dẫn hiện tại còn chưa cụ thể vì trên thực tế “người đại diện hợp pháp” có thể không đồng thời là  “chủ doanh nghiệp”. Trong trường hợp doanh nghiệp có đồng chủ sở hữu thì xác định như thế nào, nếu chỉ có một (trong số nhiều) chủ sở hữu bỏ trốn? Mặt khác, những người “người đại diện hợp pháp” này vắng mặt trong thời hạn bao lâu thì doanh nghiệp sẽ được xem là có chủ sở hữu bỏ trốn.
Nếu “chủ doanh nghiệp” đột nhiên xuất hiện trở lại và chứng minh được họ không phải “bỏ trốn” thì xử lý như thế nào?
Ngoài ra, việc quy định ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc cơ quan được ủy ban ủy quyền được quyền xác định doanh nghiệp có “chủ sở hữu bỏ trốn” cũng chưa ổn về mặt pháp lý. Vì hiện vẫn thiếu quy trình, thủ tục hành chính pháp lý cần thiết hỗ trợ ủy ban hoặc cơ quan trực thuộc cho việc xác định có hay không có việc chủ doanh nghiệp bỏ trốn.
Theo ông cần quy định ra sao để giúp cơ quan chức năng có biện pháp xử lý hiệu quả hơn những doanh nghiệp có chủ bỏ trốn nhằm tránh gây thiệt hại cho người lao động?
- Theo tôi, cần có tiêu chí định lượng cụ thể để xác định doanh nghiệp có chủ doanh nghiệp bỏ trốn, ví dụ:
  • Xác định rõ ai là người đại diện hợp pháp của doanh nghiệp. Hiện có thể hiểu chủ sở hữu doanh nghiệp là những tổ chức, cá nhân góp vốn vào doanh nghiệp. Cần phân biệt rõ chủ sở hữu doanh nghiệp và người quản lý doanh nghiệp – là những người không góp vốn vào doanh nghiệp nhưng tham gia quản lý điều hành doanh nghiệp với tư cách giám đốc/tổng giám đốc, chủ tịch và thành viên hội đồng thành viên/hội đồng quản trị của doanh nghiệp.
  • Xác định rõ như thế nào là vắng mặt của người đại diện hợp pháp và thời gian vắng mặt. Theo quy định, người đại diện theo pháp luật của công ty phải thường trú tại Việt Nam; trường hợp vắng mặt ở Việt Nam trên 30 ngày thì phải uỷ quyền bằng văn bản cho người khác để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của công ty. Do đó, việc xác định như thế nào là vắng mặt và thời gian vắng mặt là hết sức cần thiết để xác định việc chủ sở hữu doanh nghiệp có bỏ trốn hay không.
  • Cơ quan có thẩm quyền nào sẽ xác định doanh nghiệp có chủ sở hữu bỏ trốn. Trong trường hợp này, việc trao thẩm quyền này cho ủy ban nhân dân cấp tỉnh là hợp lý.
Nhưng đó cũng chỉ là giải pháp tạm thời. Căn cơ hơn về pháp lý, theo tôi, chỉ có cơ quan tòa án mới có thẩm quyền để xác định tình trạng pháp lý của một doanh nghiệp, bao gồm cả tình trạng doanh nghiêp có “chủ sở hữu doanh nghiệp bỏ trốn” hay không. Nên định danh là “doanh nghiệp có chủ doanh nghiệp biệt (mất) tích” thì ổn hơn là “bỏ trốn”.
Theo đó, theo đơn yêu cầu của người có quyền và nghĩa vụ liên quan (người lao động, công đoàn, cơ quan bảo hiểm - xã hội, cục thuế, sở kế hoạch và đầu tư…v.v) tòa án có thể áp dụng các thủ tục tố tụng dân sự tương tự trường hợp tòa án ra thông báo yêu cầu tìm kiếm “người vắng mặt” trong thời gian nhất định tại nơi cư trú (hoặc trụ sở doanh nghiệp).
Đồng thời người đệ đơn có quyền yêu cầu tòa áp dụng biện pháp quản lý tài sản người vắng mặt, bao gồm cả việc trích một phần tài sản để thực hiện nghĩa vụ nợ đến hạn của doanh nghiệp. Hoặc yêu cầu tòa án tuyên bố mất tích nếu chủ doanh nghiệp biệt tích tại trụ sở trong một thời gian liên tục nhất định…Trường hợp sau khi thông báo hoặc sau khi đã tuyên bố mất tích mà chủ doanh nghiệp biệt tích xuất hiện trở lại, tòa án cũng có thủ tục tuyên bố “hủy bỏ quyết định tuyên bố 01 người mất tích”.
Có thể có quy trình xử lý nhanh tài sản các doanh nghiệp này mà không phụ thuộc vào quy trình xử lý theo Luật Phá sản?
Theo tôi, quy trình xử lý nhanh tài sản có thể vận dụng theo quy trình của một yêu cầu dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan tòa án, như Điều 26 Bộ Luật Dân sự.
Tôi cho rằng không cần bổ sung hoặc phụ thuộc vào quy trình xử lý theo Luật Phá sản. Tuy nhiên, thời hạn bao lâu để tuyên bố chủ doanh nghiệp “vắng mặt” hoặc “biệt tích” cần quy định rõ, nhưng không nên kéo dài quá lâu, mà có thể chỉ “vắng mặt 30 ngày liên tục không có ủy quyền” như Luật Doanh nghiệp quy định (*)
Hơn nữa, ở  khía cạnh pháp lý việc “chủ doanh nghiệp bỏ trốn” chưa đủ là tiêu chí để áp dụng quy trình “phá sản” tự nguyện hay bắt buộc của một doanh nghiệp, đặc biệt là để tránh tình huống “chủ doanh nghiệp” xuất hiện trở lại sau thời gian biệt tích như tôi đã đề cập ở trên, giảm thiểu các quyết định xử lý đơn phương của cơ quan hành chính có nguy cơ bị khiếu nại, khởi kiện.
(*) Bộ luật dân sự quy định thời hạn 6 tháng hoặc 2 năm theo Điều 74 và 78 Bộ luật dân sự cho trường hợp “vắng mặt” hoặc “biệt tích” áp dụng đối với cá nhân không đăng ký gắn kết quyền và nghĩa vụ với sự tồn tại của một pháp nhân.
Xin cảm ơn ông!